Khai quật khảo cổ kinh đô Chămpa xưa tại Trà Kiệu

00:50 |

Bộ VHTTDL vừa cho phép Sở VHTTDL Quảng Nam phối hợp với Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ tổ chức khai quật khảo cổ tại di tích Trà Kiệu (thuộc xã Duy Sơn, huyện Duy Xuyên, Quảng Nam). Thời gian khai quật từ ngày 1-30.8, trong diện tích 50m2.


Kinh đô Chămpa xưa tại Trà Kiệu. Ảnh: Internet
Trong thời gian trên, các cơ quan khai quật không công bố những kết luận khi chưa được cơ quan chủ quản và Cục Di sản đồng ý. Những hiện vật thu thập được giao cho Sở VHTTDL Quảng Nam giữ gìn, bảo quản. Sau khi kết thúc đợt khai quật, chậm nhất 3 tháng Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ và Sở VHTTDL Quảng Nam phải có báo cáo sơ bộ và sau 1 năm phải có báo cáo khoa học gửi về Cục Di sản văn hóa. Di tích thành cổ Trà Kiệu (Simhapura) là kinh đô của Vương quốc Chămpa xưa, đã được Bộ VHTTDL công nhận là di tích cấp quốc gia.

Hình ảnh Bình Dương cách đây gần 100 năm

00:27 |


Xem ảnh Bình Dương cách nay khoãng 100 năm.
Xe bò kéo

Hình ảnh
Thủ Dầu Một

Hình ảnh

Tàu chở hàng đậu kế Nhà mát.


Một góc chợ

Hình ảnh
Bến đò TDM 1920

Nhà thương.



Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh

Hình ảnh
Nhà thờ Phú Cường thời Pháp

Hình ảnh
Bến đò TDM 1950
Hình ảnh

trong lò gốm

Hình ảnh


Cổng tam quan xưa
Zoom in (real dimensions: 478 x 800)Hình ảnh
Chùa Cô hồn.




Hình ảnh

Hình ảnh
Chùa của người Hoa

Hình ảnh


Cổng vào chùa Bà Lụa
Hình ảnh

Hình ảnhPhu cạo mủ cao su

Hình ảnh
Vườn ông Yểm năm 1911

Hình ảnh
Chợ Thủ Dầu Một

Hình ảnh
Buôn bán trên sông

Hình ảnh
Nhà Việc

Hình ảnh
Chợ Gạo Lái Thiêu

Hình ảnh
Từ dinh tỉnh trưởng nhìn xuống bờ sông Sài Gòn

Hình ảnh
Chợ Bình Dương năm 1968

Hình ảnh
Chợ Bình Dương năm 1968

Hình ảnh
Nhà cổ ở BD:
1/ Nhà ông Trần Công Vàng-Đốc phủ sứ.


Nhà bà Huyện Tình:

1 nhà xưa bi đổ nát.



Sưu tầm

Lò Vôi Cẩm Hà

23:45 |

Quảng Nam quê ta, thời tiết chuyển biến theo từng mùa rất dễ phân biệt. Hai mùa mưa nắng gây ảnh hưởng đến đời sống con người không phải ít. Mùa đông thì mưa tầm tả đến mấy tháng liền, mưa chi đến nổi người nông dân phải gọi mưa thúi đất, không làm ăn được chi cả. Rồi mùa hạ đến nắng chang chang, oi bức rất khó chịu, thậm chí đặt lưng nằm lên phảng gỗ ngủ trưa cũng không yên, nóng ngảy nhót. Người ta nói: “Nắng tháng tám, nám trái bưởi” đó mà. Đồng lõa với cái khắc nghiệt đó, ngọn gió hướng tây được gọi là gió nôm, thổi từ Lào qua mang theo hơi nóng hăng hắt, thiêu đốt đồng lúa, cỏ cây cháy rụi, khô queo. Không như ngọn gió nờm (nồm) thổi từ biển Cửa Đại lên rất mát mẻ, dễ chịu vô cùng. Thế mà đối với những kẻ yêu nhau, dù cho thời tiết có thế nào đi nữa cũng không quan tâm, coi như không có việc gì xãy ra, mượn cớ ngọn gió nói gần, nói xa để ướm thử lòng nhau: 
" Gió nôm thổi xuống lò vôi,
Ai đồn Ta (với) Bạn xứng đôi vợ chồng.”

Quan sát hình thù một lò vôi, thật quá đơn sơ giản dị. Trơ trọi một chòi tranh thấp lè tè, che mưa nắng một ụ đất nằm chình ình ngay chính giữa, gọi là lò hầm vôi và được xây bằng gạch chưa nung với đất sét thật dẽo, tạo thành một khối đặc có đường kính 3 mét và chiều cao 5 phân. Mặt bằng bên trên lõm xuống, trũng lòng chão, nơi đây chứa vun lum lúp một đống vật liệu gồm có vỏ hến và than củi trộn vào vừa đủ số lượng làm vật xúc tác cho sự cháy bùng. Bên cạnh lò trang bị một quạt gió, đạp bằng chân thổi từng luồng dưỡng khí qua ống dẫn hơi vào trung tâm của lò, nhờ đó sự đốt cháy nung nóng được liên tục. Đến khi nào ngọn lửa không còn thấy cháy bốc lên, người ta mới ngưng hầm đốt. Bây giờ chất sừng bên ngoài vỏ hến hoàn toàn tiêu hủy, để lộ ra mô xốp trắng ngần, đụng vào dễ bể nát, đó là vôi được hầm xong. Chờ cho lò nguội lạnh, người ta mới tách riêng phần vôi trắng tinh, mướt mịn ra,  đem sú nước dùng để ăn trầu. Phần còn lại xấu hơn dùng vào việc quét tường, xây bờ xông nhà cửa, hàng rào... Công việc xem qua chỉ giản dị như thế. Nhưng vật liệu tích trử, vun thành từng đống cao có ngọn ngoài trời, trông thấy không khỏi kinh ngạc. Đó là một công trình chuẩn bị lâu dài, gom góp cho đủ số lượng dễ gì một sớm, một chiều có ngay được. Thời xưa chưa có xi măng, chỉ có dùng vôi để xây nhà cửa, tường rào, thành quách mà cũng vững vàng, bền chắt. Trước khi đem ra dùng, cần có một thời gian ủ rộng khá lâu để cho vôi khô nở đều, sau đó kêu trai tráng đến nhà giã vôi ngày đêm liên miên mới dùng được. Cảnh trai tráng hát hò khoan vui nhộn hòa nhịp với tiếng chày nện xuống, nhấc lên làm vui lây hàng xóm lân cận quá chừng. Hồ xây muốn được chắt chắn hơn, người ta còn gia thêm nước mật hoặc nước nhựa cây bời lời, trước khi trộn cát vào để có vửa hồ hoàn hảo. Nhắc đến cây bời lời, không thế nào quên một thời niên thiếu với thú chơi bắn súng trãy, đạn hạt bời lời, mà ở quê mình mới có thú vui tự tạo do vật dụng có sẵn trong thiên nhiên mà làm nên. 

Nghĩ lại ông bà ta ngày xưa đã có nhiều óc sáng tạo, từ ích lợi nầy nãy sinh hữu dụng khác. Ý định khởi đầu cào hến ăn ruột, rồi từ đó tận dụng vỏ hầm ra vôi, một nhu cầu thiết thực đem lại nơi ăn, chốn ở cho con người thoải mái nhiều hơn. Đặc hải sản hến được phần đông mọi người ưa thích, từ miền đồng quê cho đến thành thị. Tuy rằng không phải món cao lương mỹ vị, nhưng có mùi vị đậm đà hương đồng cỏ nội. Nhắc đến là thấy nhớ quê hương, nhớ rõ ràng từng khúc sông, bên lở bên bồi. Mà bên bồi mới là nơi loài hến sinh sản nhiều nhất. Không biết con hến sinh sản qua ngã nào? Trứng hay là con, chưa từng thấy hến con trong bụng mẹ như loài ốc, mà cũng chả thấy trứng rời, trứng chùm bao giờ. Thế mà vô số kể, cào xúc mãi vẫn có để mà bắt. Ở nhà quê, vào mùa nước cạn chỉ cần mang theo cái rổ são và chiếc mũng rái là đủ đồ nghề rồi. Cứ việc lặn xuống nước, cào xúc phần lớp mặt có cả hến trong cát cho thật đầy rổ rồi nâng lên khỏi mặt nước đồng thời lắc são, gạn lọc lấy một mớ hến vàng hùm, thấy bắt ham. Từ con lớn hết cở to bằng hạt đậu ngự, cho đến con nhỏ xíu như hạt đậu đen cũng không tha. Đem hến về nhà, chà xát cọ rửa thật sạch sẽ, chờ cho nồi nước sôi bùng lên, bỏ vào tí muối, đổ mớ hến vào và đậy nắp vung lại. Khi nào thấy nước sôi trở lại, dùng đôi đủa bếp đánh đều cho hến hả miệng, tróc vỏ. Đổ hến ra rổ, hứng lấy nước cốt màu đục ngầu, sanh sánh, vị ngọt tự nhiên rất ngon miệng. Đải lấy phần ruột và ướp hành tiêu nước mắm, chuẩn bị cho từng món ăn tùy theo sở thích của từng người. Món ruột hến xào, xúc bánh tráng nướng lai rai trong khi chờ đợi ăn bửa cháo hến nóng, nấu bằng gạo lúa mới đầu mùa thật ngon tuyệt. Thông dụng và thực tế hơn, không có nồi canh nào ngon, ý vị hơn nồi canh hến nấu với lá rau bùi ngọt, rau muống xắt nhỏ và chang vào chút nước mắm có dằm trái ớt tươi chìa vôi. Món canh tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ đạm chất, ăn vào mát dạ, dễ tiêu vô hại.

Cũng nhờ làng Kim Bồng có nghề cào hến với dụng cụ qui mô hơn, mà người Phố Hội mới được ăn hến quanh năm và làng Cẩm Hà mua được nhiều vỏ hến để làm nghề hầm vôi. Người ta tích trử thật tài tình, ngay cả trong những ngày mưa sa, bão táp lụt lội vẫn thấy gánh hến rao bán khắp mọi ngã đường. Buổi sáng ăn khoai lang Tiên Đỏa với hến nước thành thói quen, đã ngon miệng mà còn rẻ tiền và trong bửa cơm thường ngày, không có bát canh hến đặt cạnh tô mắm xổi dưa cà, thấy còn thiếu cái gì đó hương vị Hội An.

Như chúng ta đã biết, khi hầm vôi người ta dùng đến than củi gọi là than hoa. Nguồn than ở đây do người miền rừng núi cung cấp. Ai có vào rừng sâu mới tường tận, thấy đích thực cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của người tiều phu đi đốt than. Hành trang mang theo không ngoài đôi giỏ gánh than cũ kỷ, cái rựa mòn khuyết theo với thời gian năm tháng và mo cơm nguội để dành ăn lót dạ. Chiều tối mờ mịt trở về với gánh than nặng tiểu trên vai không cân xứng với tấm thân ốm yếu gầy còm, áo quần tả tơi rách rưới, mặt mũi lọ lem nhơ nhớp.
 
Sau cuộc đổi đời năm 75, hình ảnh bề ngoài người tù cải tạo, bắt buộc đi lao động đốt than đem về chạy máy nước, thổi bệ lò rèn cũng giống y chan người tiều phu đốt than không hơn, không kém. Suy ngẫm lại khúc hát Mẹ ru năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, xót thương cho thân phận kẻ thất thế, sa cơ: 

“Chim Quyên xuống đất ăn trùn, 
Anh Hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.”
 

(Ghi thêm: Chim quyên là loại chim chỉ ăn trái chín cây, không bao giờ ăn loại côn trùng như: dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ… và nhất là đời nào lại ăn con trùn sống nơi bùn lầy dơ bẩn. Bởi vậy, chúng ta lại còn có câu hát ru con nữa, ấm áp tình nghĩa vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.”) 

Nghề Dệt Cổ Truyền, Quê Tôi

23:42 |

Ai đã có lần ghé qua vùng quê Bảo An - Xuân Đài, thì thế nào cũng được nghe câu hát “chua” đầy ẩn ý mỉa mai, mà thực ra không phải như vậy:

“Tiếng đồn con gái Bảo An,
khéo mua vải sợi về đan mành mành”.

Mãnh vải có đến nổi sưa như tấm mành mành, mà người ta dùng để ngăn chận bầy gà nhãy vào bươi chải vồng cải, luống rau hay không? Không đâu! Đó là lối khen tặng hơn là chê bai. Các cô gái thợ dệt ở làng Bảo An khéo tay lắm đó. Mặt vải khi vừa mới dệt sưa rích. Nhưng sau khi đem hồ và nghè đập, sợi chỉ sẽ mềm ra nhuyển mượt trông rất đẹp mắt. Khách mà lựa chọn thấy vừa ý liền, không còn do dự chút nào. Vào thời xưa kia, nghề dệt vải và lụa ở quê tôi thuộc phạm vi trong một gia đình riêng rẻ, lẻ loi. Nghề dệt được truyền lại từ đời nầy qua đời nọ. Làm sao quên được hình ảnh thân yêu, khi mọi người quây quần cùng nhau làm việc dưới cùng một mái nhà đầm ấm sum vầy: Cha ngồi bên xa quây vải, cần mẫn quây sợi vào ống. Mẹ trên khung cửi nhịp nhàng đưa thoi, hòa hợp cùng với tiếng kêu cót két của con ác. Chị thì suốt chỉ không ngừng tay. Và em giúp mẹ nhặt chiếc thoi rơi, đôi khi còn chạy vào bếp lấy thanh củi cháy, cho cha mồi điếu thuốc. Thật là một hình ảnh sinh động trong một gia đình đầm ấm, sum vầy. Nơi đây hoài bảo của người viết, không ngoài mục đích truy nhớ đến công ơn của Tổ Tiên, đã giàu công truyền dạy nghề dệt cổ truyền ở quê mình. Các vùng đất tốt, thịt hay cát pha vùng Quảng Huế, Phú Bò, Bảo An, Bàn Lãnh, Đông Bàn…thường thấy người ta gieo trồng cây bông vải. Cây bông vải là một loại cây kỷ nghệ, trồng để lấy sợi dệt vải, đáp ứng nhu cầu may mặc cho con người: mát da về mùa hạ, giữ ấm về mùa đông lạnh lẽo, gió bấc mưa phùn, lụt lội triền đến mấy tháng liền.

Mùa xuân khí hậu mát mẻ, rất thích hợp cho cây bông vải phát triển đơm bông kết trái, để đến đầu mùa hạ trái nở rộ, phơi màu trắng xóa trên các cánh đồng rộng thênh thang. Chuẩn bị cho mùa gieo cây bông rất chu đáo: cày bừa cho đất nhuyển thục, sạch sẽ cỏ dại và sau đó mới rải phân tro đầy đủ. Sau đó người ta bắt đầu lên thành từng luống, chừa rãnh để thoát nước giữ cho cây bông không bị chết ngập. Hạt giống để gieo cũng lo chuẩn bị trước, ngâm nước nóng hâm hẩm qua đêm, ngày hôm sau vớt ra cho vào tro chà xát để tách rời từng hạt, không dính chùm với nhau dễ dàng vải đều trên mặt đất. Một tuần lễ sau cây bông con mọc nhô lên, lúc ban đầu có hai lá yếm trông xinh xắn như chiếc dù nhỏ xíu. Đợi cho cây bông con lớn đôi chút, người ta nhổ tỉa bớt, chừa cây nọ cách cây kia xa nhau 3 tấc. Sau vài ba lần săn sóc cuốc cỏ, tém đất vun gốc, từ từ cây bông dần dà lớn lên, nẫy sinh nhiều nhánh con và cao không quá đầu gối bắt đầu ra hoa, nhìn vào đám cây bông cũng đủ màu sắc: trắng, vàng, tím, rất đẹp mắt, không thua kém loại hoa trồng kiểng bao nhiêu. Khi hoa tàn rụi, trái bông non lộ ra bên trong cuống, lần hồi lớn dần lên và lớn hết cở to bằng quả cau điếc. Sát cuống là đài hoa có bốn tai ôm sát trái bông, đến khi già bốn tép bông nở tung ra phơi bày một màu trắng tinh, mượt mà, mềm mại. Đến mùa hái bông, người ta ra đồng từ tờ mờ sáng tinh sương, khi đó đài bông còn ướt, không bị gãy dính vào múi bông rất khó gỡ ra khi lặt bông. Cây bông ra trái từng đợt, trái nào nở người ta mới hái, mỗi lần vài ba trái, lần cuối cùng trái nhỏ dần và lúc nầy thân cây cũng tàn rụi, thu nhặt gánh về phơi khô dùng làm củi, nấu bếp cũng hữu dụng.

    Bông trái thu về, gỡ lấy múi bông ra khỏi đài và đem phơi nắng cho thật khô. Dùng xa cán để loại bỏ hết hạt, trước khi qua giai đoạn làm tơi gọi là bắn bông. Người ta dùng một cành cung, làm bằng gỗ thật dẻo căng bởi sợi dây cung tre vót tròn, hai đầu dún lại để cột vào hai đầu cành cung. Công việc bắn bông làm như thế nầy: bỏ một số lượng bông vừa đủ lên mặt bàn, tay trái cầm cành cung đưa dí dây cung vào mớ bông đó, tay phải cầm một thẻ tre mõng đánh bật vào dây cung liên hồi, nghe bưng bực, bưng bực… khi nào thấy nhã bông đã toe toét, phồng lên như có thể bay lên được mới thôi. Ngắt lấy một ít bông bắn xong, bỏ trải dài trên mặt bàn, đặt lên đó chiếc đủa làm nòng và xe tròn thành con cúi mập nõn nà. Có được con cúi sẽ kéo thành sợi qua chiếc xa kéo vải. Đế xa gồm hai thanh gỗ ghép hình chữ T, chỗ giao điểm dựng lên một trụ đứng cao 4 tấc, nơi đây gắn một vành xa có thể quây chạy vòng tròn. Đầu chân chữ T cũng dựng lên một trụ khác bề cao 2 tấc, trên đầu trụ lắp một trục nằm ngang, trục nầy quây tròn được nhờ bộ phận dây trân, nối chuyền từ vành xa tới rãnh mương của trục. Đầu trục còn lại cắm vào đoạn kèo dù, đầu nhọn đưa ra bên ngoài gọi là con quay. Từ đầu con quay, người ta vê con cúi lấy ra mối chỉ và tra vào đầu con quay, bắt đầu kéo vải. Dùng tay phải quây vành xa, đồng thời trục con quay cũng quây theo, tay trái cầm con cúi từ từ kéo ra, dài tới đâu trục con quay đánh săn tới đó. Khi đã kéo ra hết tầm tay, đưa cánh tay lên cao và quây vào trục thành hình búp chuối, đầu nhọn bên ngoài. Cứ thế mà kéo ra quây vào, hết con cúi nầy nối con cúi khác cho đến khi đầy một búp chỉ no tròn. Công việc kéo vải, thường dành phần cho trẻ con, hay đàn bà con gái. Tuy vậy, phải có tay nghề giỏi, mới kéo được sợi chỉ trơn tru nhỏ đều hân hấn, bán chạy đắt hàng. Có được búp chỉ rồi đem sang thành chẻ vải, gọi là vải bạch còn bở lắm, phải được ngâm nước lạnh một hai đêm (nước ngâm vải thối lắm). Sau đó giặt xả sạch sẽ, trải từng chẻ vải ra và rắt cơm gạo trắng đã ngâm nước vào, bỏ mớ chẻ vải đó lên miếng đá bằng phẳng, dùng đôi bàn chân đạp nghiền cơm nát bấn, thấm săn quánh vào sợi chỉ trở nên bền chắt hơn. Đến đây người ta lồng hai cánh tay vào chẻ vải, giựt giựt cho từng sợi vải rời ra, rồi đem móc vào cây sào phơi khô ngoài trời nắng. Chẻ vải khô rồi đem cài vào cuồn, đặt lên chiếc quạng và từ đó dùng xa quay để quây thành ống vải múp rụp, hai đầu không bằng nhau, làm như thế khi đặt ống vải thẳng đứng, sợi chỉ kéo lên trơn tru dễ dàng. Khi đủ số lượng ống vải cần thiết, tiếp theo là công việc mắc cửi. Vị trí mắc cửi phải có độ dài 10 – 15 – 20 thước, người ta thường mắc cửi ngoài trời hơn là trong nhà không đủ chiều dài. Ở đầu nầy người ta đặt một bàn cọc, có một số cây cọc con cần thiết, đóng thành hai dãy song song, cây nọ cách cây kia 1 tấc. Các cây cọc đó dùng để giữ cho các ống vải khỏi bị nhào ngã, khi mắc cửi. Bên trên bàn cọc đặt một cây quyết bắt ngang trên cao vừa tầm người vớ, cây quyết có nhiều lỗ khoen do sợi mây cám xỏ ngoằn ngoèo, uốn cong mà thành. Bên cạnh bàn cọc xa khoảng 5 tấc, đặt thêm một bàn lược có một hàng dọc cây chực con đều nhau cách khoảng  8 phân, bàn lược giữ chặt nhờ hai cây cọc đóng ở hai đầu. Ngang hàng bàn lược nầy đóng thêm hai cây chực thầy thật to và trơn tru, dùng để móc chùm canh chỉ vào đó khi bắt nhịp, cài lông mốt âm dương. Đầu đàng kia, tùy theo khoảng cách ấn định, đặt thêm một bàn lược nữa, giống như bàn lược trước và cũng phải giữ cố định bất di dịch. Khởi sự công việc mắc cửi, người thợ chính lần lượt kéo hai sợi chỉ canh từ ống vải lên, một sợi ở hàng cọc phía trước và một sợi ở hàng cọc phía sau nối lại với nhau, xỏ qua một lỗ cây quyết. Sau khi nối xong các mối chỉ như thế, đem tất cả móc vào cây chực con đầu tiên ở bên phải của bàn lược, tiếp tục kéo chùm chỉ dài ra, trao cho người phụ kéo dài đến bàn lược đầu đàng kia, cũng khởi đầu móc vào bên phải. Khi thấy người phụ mắc xong, người thợ chính tiếp tục móc chùm chỉ vào cây chực con kế tiếp và cũng trao cho người phụ làm công việc như trên, cho đến khi nào hết tất cả các cây chực con trên bàn lược. Tới đây dùng mực hay lá mướp vò nát, bôi vào canh chỉ tại tất cả cây chực con, việc đánh dấu nầy sẽ giúp cho người thợ dệt biết chừng đủ độ dài của cây vải sau nầy (dấu nầy nằm bên biên khổ vải). Đến đây là lúc bắt nhịp đi trở lại, gài âm dương. Người thợ chính dùng ngón tay trỏ phải lần lượt bắt ngoéo tréo các sợi canh chỉ, từ phải qua trái, đem móc vào cây chực thầy đóng ở bên cạnh, kéo chùm canh chỉ đi trở lại theo hình số 8 hở, không để nhập lộn vào đường đi tới, nhờ có cây chực thầy đóng ở phía sau phân tách ra. Tất cả những lần đi trở lại, nên nhớ móc ngược chiều với lần đi tới. Công việc lặp đi lặp lại cho đến khi nào đủ số canh chỉ cho khổ vải (khoảng 5 tấc) và chấm dứt ở cây chực con đầu tiên. Mỗi lần móc qua cây chực thầy, người thợ móc trải dài từ dưới lên trên, nhờ thế sẽ dễ dàng xỏ khổ sau nầy. Khi nào thấy đủ khổ vải rồi, người ta lấy chùm canh chỉ ở cây chực con đầu tiên ra, lồng vào cây tiến rồi tra vào một chiếc xa quây có cuồn thật lớn, lần lượt quây hết phần canh chỉ vừa mắc xong vào xa, khóa thăng gài để đó chuẩn bị xỏ chỉ vào khổ. Dựng một cái khổ thẳng đứng gần cây chực thầy, bắt đầu cắt sợi chỉ ra, xỏ từng sợi chỉ qua khe khổ liền nhau nhờ cái lông nhím, và nối lại với nhau, lồng vào cây nẹp bằng tre để giữ lại. Xâu chỉ xong nhỗ cây chực thầy phía trước, thay cây chực thầy phía sau bằng miếng nẹp khác gọi là cái tiến, giữ phần âm dương. Đem cây nẹp gài vào trục cửi, trải đều mặt canh chỉ ra trên trục và đặt lên bộ giàn quây khác, bắt đầu công việc chải cửi. Người thợ cũng dùng cái lông nhím, để tách rời các sợi chỉ dính chùm lại với nhau, vừa chải vừa đẩy cái khổ di chuyển đi trước, theo sau cây tiến trong suốt thời gian chải cửi. Chải xong đoạn nào quây trục quấn vào, vì hai bên triên thường hay bị dùn nên chi người ta phải dùng lá đa hay lá mù u phơi khô, xấp gấp đôi để lót chằng, giữ cho trục cửi thẳng đều. Tiếp theo chuẩn bị bắt go. Bộ go gồm hai lá, mỗi lá go được làm bằng hai thanh tre nhỏ dài lối chừng 7 tấc, và sợi chỉ go thật dài dùng để thắt vào thẻ tre thành những dãy khoen, có độ dài 10 phân, đặt cho hai dãy khoen nầy giao nhau 6 phân (đây là độ hả để chiếc thoi chui lọt qua). Xen kẻ cách khoảng những khoen 10 phân, còn có những khoen 7 phân, những khoen nầy có từng đôi nối chuyền với nhau và không dùng xỏ sợi chỉ qua, như thế khi treo lá go lên có độ dài 14 phân. Treo bộ go vào cái giá và đặt sát trục cửi để bắt go. Hai người ngồi đối diện nhau, ở giữa là truc cửi và bộ go. Khởi sự, người ngồi bên trục cửi cắt đứt các đầu mối chỉ, tách riêng hai phần canh chỉ  âm dương ra nhờ cây tiến đã đặt từ trước. Người ngồi phía bộ go, dùng ngón tay trỏ phải, móc qua hai khoen go dưới và trên của lá go phía trước, chờ tiếp nhận một sợi chỉ ở phần âm từ bên trái của trục cửi, do người kia đưa cho. Kế tiếp người bắt go cũng làm như vậy ở lá go phía sau, bắt lấy một sợi chỉ ở phần dương. Cứ như thế lần hồi cho đến hết sợi canh chỉ cuối cùng. Sau khi bắt go xong, xỏ lại từng mối chỉ qua khe của cái khổ trở lại, nối các mối chỉ lại với nhau, chờ đưa lên khung cửi để dệt thành vải.

Khung cửi dệt có hình dáng như chiếc giường chiếc, đóng bằng gỗ cây mít tốt nhất, hai cặp chân trước cao hơn hai cặp chân sau. Ở về vị trí 1/3 phía trước của cặp thanh, dựng lên hai cây trụ cao 5 tấc, trên đầu cặp trụ nầy bắt qua một cây đòn trơn tru, để đở mặt canh giăng qua. Một hệ thống xy lanh ở phía trước nối liền với dãy khổ nhờ cặp giăng. Nhờ có hệ thống nầy mà dãy khổ có thể di động, nâng lên và dập xuống theo sự điều khiển của người thợ dệt. Phần trước khung cửi đặt trục cửi có thể quây được, phần sau cũng là chỗ ngồi dệt, gần chỗ ngồi về phía trước mặt có trục quấng vải dệt ra. Ngay chỗ ngồi, dưới chân có hai bàn đạp, có thể chuyển động tại đầu gót chân, tựa vào cây nòng sắt xỏ xuyên qua. Đầu mũi của hai bàn đạp có khoan lỗ sẵn, nối chuyền bằng 4 sợi dây lên bộ go. Trên đầu người ngồi, lắp ở đó một con ác bằng gỗ, có thể mổ xuống và ngất lên, theo nhịp đạp của hai bàn chân và cũng nối chuyền bằng 4 sợi dây từ bộ go lên đầu và đuôi con  ác. Người ta mang trục cửi đặt lên khung, kéo khổ canh căng qua đòn đở thẳng tới trục quấng, tra chiếc khổ vào dãy khổ, và móc bộ go vào chân bàn đạp thẳng đến con ác, tuần tự như sau: Phần dưới lá go phía trước móc chuyền đến bàn đạp bên phải, phần trên móc chuyền đến đầu mõ con ác. Phần dưới lá go phía sau móc chuyền đến bàn đạp bên trái, phần trên móc chuyền đến đuôi con ác. Đến đây căng néo bộ go cho thật thẳng để độ hả nhịp mới được chính xác, không bị vướng sợi canh chỉ khi dệt. Khi bắt đầu dệt, người thợ dùng bàn tay trái chống đở dãy khổ lên, tay phải cầm chiếc thoi, đạp bàn chân phải xuống, tức thì lá go phía trước kéo tất cả phần âm xuống, lúc nầy con ác chỗng đuôi lên, kéo theo phần dương của lá go phía sau lên, tạo ra độ hả nhịp để chiếc thoi được phóng qua từ tay phải, tay trái bắt lấy thoi đồng thời tay phải diều cho dãy khổ dập xuống. Tiếp theo tay phải chống đở dãy khổ, tay trái giữ lấy chiếc thoi, đạp bàn chân trái xuống, lá go phía sau kéo phần âm xuống, con ác ngất mõ lên, lá go phía trước kéo theo phần dương lên, tay trái phóng thoi qua trở lại, tay phải bắt lấy thoi, đồng thời tay trái diều cho dãy khổ dập xuống. Các động tác cứ thế mà lặp đi lặp lại, theo sự điều hợp nhịp nhàng giữa chân, tay và mắt của người thợ dệt, ròng rã suốt ngày đêm. Ngoài ra cũng còn vài công việc phụ như: cái suốt chỉ phải ngâm vào nước, vớt ra vắt cho ráo mới tra vào chiếc thoi để dệt, thỉnh thoảng còn dùng gùi vải ướt, thoa đều lên mặt khổ vải đang dệt, giữ cho mặt vải khỏi bị sượng nhăn nheo, và bên dưới còn có cặp giăng hình cung luôn luôn gài vào. Cây vải tháo ra từ trục, người ta còn phải phun hồ và cuộn tròn vào cây trục, xong rồi đặt trục vải lên miếng đá bằng phẳng, hai vợ chồng ngồi ở hai bên, mỗi người trên tay cầm chày, vừa đập vừa lăn tròn đều tay, tạo nên mặt vải dày mịn, mượt mà… Hàng vải dệt ra giữ nguyên màu trắng, hoặc nhuộm thành màu đen hay đà còn tùy thuộc vào giới tiêu thụ ưa thích. Cũng có thể dệt thành vải sọc dọc, rằn ca rô cũng không mấy khó khăn, bằng cách đặt xen kẻ ống chỉ màu vào giữa ống chỉ trắng, trong lúc mắc cửi và thay đổi chiếc thoi có suốt chỉ khác màu. Vải dệt như trên ở quê tôi gọi là vải ta, mặc rất mát dễ rút mồ hôi, khi làm việc nơi đồng án, ruộng nương… Nhưng có điều bở lắm, mau rách và cũng không được đẹp cho mấy.  Và đến đây xin mời trở về quê tôi qua hàng tơ lụa, có giá trị bền chắt nhiều hơn: “Sắc bùa là sắc bùa âu, năm ni năm mới trồng dâu để tằm. Sắc bùa là sắc bùa nằm, năm ni năm mới nuôi tằm ươm tơ. Sắc bùa… “. Đó là câu mỡ đầu chúc đầu xuân ngày tết, mà đoàn sắc bùa đi đến từng nhà, chúc cho gia chủ trúng mí tằm, làm ăn phát đạt thịnh vượng. Bởi vì nghề trồng dâu nuôi tằm ở thôn quê, nếu gặp thời vận thì có thể tạo thêm trâu bò, sửa sang nhà cửa khang trang, đẹp đẽ hơn: “Làm ruộng ba năm, không bằng trúng tằm một mí”. Nghề “để” tằm có lợi dữ như thế đó!

Vùng đất trồng cây dâu thích hợp nhất, thường dọc theo hai bên bờ sông. Các biền dâu Quảng Đợi, Giao Thủy, Mỹ Lược, Bến Đền…ngọn cao vút, lá xanh non mượt là nguồn làm thức ăn nuôi tằm thích hợp nhất. Hể nhà nông nào có nhà cửa rộng rãi, thoáng mát thì có thể dựng buồng nuôi tằm. Buồng nuôi tằm bao gồm một cái đuổi, đóng bằng gốc tre hay bằng gỗ, hình thức chỉ là cái kệ có nhiều tầng. Mỗi tầng đơn sơ chỉ võn vẹn hai cây thanh ngang và hai cây thanh dọc, nâng đở từng chiếc nong tằm trên đó. Bao che quanh đuổi bằng cái mùng vải thật rộng lớn, nhằm mục đích ngăn chận bầy ruồi lằn ưa sà vào cắn chích, gây bệnh cho con tằm có những chấm đen, sau nầy không làm được kén tốt. Gây giống bằng cách, người ta chọn lựa toàn những con kén giống cứng no tròn, bỏ vào giỏ dâu, gài nắp cẩn thận đem cất giữ nơi cao ráo, mát mẻ. Kén giống sau 3 ngày sẽ lộn thành nhộng, múp đầu múp đuôi. Đời sống của nhộng trong vòng 7 ngày sẽ hóa thành bướm. Bướm dùng miệng cắn quanh một vòng tròn ở đầu kén, để chui ra ngoài. Đây cũng là một đặc điểm sinh tồn tự nhiên, chứ thực ra cái kén rất dai và bền vô cùng, dùng con dao bén ngọt mà cắt vỏ cũng khó đứt. Bướm sinh ra màu trắng ngà, thân mình đầy lông măng và dính đầy phấn. Chúng nó có đôi cánh nhỏ, không bay được, chỉ bò quanh quẩn trong cái trẹt, nhịp nhịp đôi cánh xê dịch gần xa để tìm nhau đực cái thụ tinh. Khi nào thấy bướm cái đã đạt được mục đích, người ta lựa riêng bướm cái ra, đem bỏ vào cái trẹt có lót giấy mềm mõng dễ hút nước, thường dùng giấy viết chữ nho tốt nhất. Bầy bướm cái bò lui, bò tới hay lòng vòng đẻ từng dãy trứng dính liền với nhau trên mặt giấy. Người ta cuộn tròn mặt có trứng vào bên trong, cột dây lại và treo trên trần nhà, đề phòng chuột, thằn lằn phá hại. Bảy ngày sau, trứng bướm nở ra tằm con nhỏ li ti, màu đen xam xám, mình mẫy có nhiều lông con nho nhỏ. Dùng cái lông gà quét phủi hết tằm con vào chiếc nia, bắt đầu săn sóc trông nom từng giờ, cả ngày lẩn đêm. Lúc đầu tằm chỉ ăn được lá dâu non, xắt nhỏ như sợi thuốc rê, mỗi lần cho ăn người ta rải đều lá dâu xắt phủ kín lên mình tằm, bắt được mùi lá dâu, tằm con đua nhau ăn rất nhanh, xong rồi nằm nghỉ và lại ngẩn đầu lên chờ ăn đợt kế tiếp… Mỗi ngày cần làm phân cho tằm 2 lần, bằng cách cuốn lớp mặt có cả tằm lẫn một ít lá dâu lấy ra, chừa lại phần phân hạt tròn nhỏ xíu cùng lá dâu thừa bên dưới. Dùng chiếc nia khác mà sang tằm qua, tiếp tục cho ăn đến ngày thứ 4, tằm không ăn nữa và ngủ liền trong 24 giờ. Đây là thời kỳ tằm con thay da và rụng hết lông con. Tằm thức dậy, tiếp tục cho ăn lá dâu xắt lớn hơn, trong vòng 7 ngày nữa, tằm lại ngủ trở lại 24 giờ. Thời kỳ nầy gọi là tằm ăn mốt, con tằm lớn dần to bằng ruột cây viết chì. Tằm ăn hai thức dậy, có thể ăn nguyên lá dâu, cho ăn tiếp tục 2 ngày ½ nữa, tằm lại ngủ trở lại cũng 24 giờ. Tằm ăn ba, bây giờ tằm ăn được lá dâu già hơn, cho ăn như thế trong vòng 3 ngày nữa, tằm lại thôi ăn và ngủ tiếp 24 giờ. Sau thời kỳ ăn ba, cho tằm ăn cả cộng dâu cũng được. Nhìn vào nong tằm, thấy chúng nó ăn rất nhanh và khỏe, ghé tai gần nong tằm nghe được rõ ràng tiếng tằm ăn rào rạo. Bởi lẽ đó, nhà nuôi tằm thường trầm trồ, khen lấy khen để: “ăn như tằm ăn lên”. Sướng mắt quá! Mỗi lần lên tuổi, tằm lớn lên thấy rất rõ, biến dần màu trắng ngà, người ta phải phân chia, sang ra thành nhiều nong, tránh được tình trạng nục, chật chội làm tằm chậm lớn và sinh bệnh. Lúc nầy là lúc nhà nuôi tằm bận rộn nhất, nào lo chạy hái cho đủ số lá dâu cung ứng, suốt trong 7 ngày ròng rã của giai đoạn chót: “trăm dâu, đổ đầu tằm”, nào lo cậy mượn hàng xóm chuẩn bị làm bủa, và nhất là thao thức trông chờ thành quả, mí tằm không phải đem đổ đi vì mắc bệnh. Vất vả như thế, cho nên người ta mới nói rằng: “làm ruộng ăn cơm nằm, làm tằm ăn cơn đứng”. Trước hai ngày chín rộ, nhìn vào nong tằm thấy lác đác có một ít con tằm chớm ướm vàng, gọi là Tin (báo hiệu). Đến ngày cuối cùng, tất cả nong tằm chín ửng vàng, óng ánh chất tơ bên trong bụng vàng khè. Cả loạt lớn đều một lứa, to bằng cây bút chì và dài lối 3 phân tây. Tằm chín sẽ làm ra cái kén trên tấm bủa. Người ta dùng hom dâu hay cây rang núi phơi khô giũ sạch lá, đem sắp thành hai lớp bỏ ngang bao bọc một lớp bỏ dọc ở giữa. Thêm vào đó còn có nhiều cây róng dọc cột nẹp lại với nhau, giữ cho tấm bủa được cứng cáp. Bủa còn có một đòn khiêng ở giữa, để dễ di chuyển vì cũng khá nặng. Đặt tấm bủa nằm nghiêng 45 độ, ngoài trời hanh nắng nhờ có cặp nạng chống ở hai đầu. Người ta đem số tằm chín rải đều lên trên mặt của bủa, tằm bắt đầu nhả tơ xấu ra trước để gầy tổ bên ngoài và tiếp tục nhả tơ tốt làm tổ cho đến khi hết tơ trong bụng là xong tổ kén. Đôi khi trời nắng nóng quá, người ta phải di chuyển tấm bủa vào chỗ có bóng mát, tránh tình trạng tằm chết vì cháy nắng, ngược lại về chiều trời mát phải dùng nồi lửa than vùi tro, đặt phía dưới tấm bủa gây thêm hơi nóng, thúc giục con tằm làm kén mau hơn. Suốt ngày canh chừng lũ chèo bẽo, chim khách hay bầy gà thừa cơ sà xuống ăn càng. Chiều tối, khi nào thấy tằm trên bủa làm kén đến con cuối cùng, người ta xúm nhau khiêng hết các tấm bủa về nhà, nhặt gỡ lấy từng cái kén ra, bỏ dồn tất cả vào cái nong đặt trên cặp ghế ngựa dài, ngay giữa nhà. Bạn hàng đi mua kén (còn gọi đi hốt kén) xem xét lựa chọn loại kén nặng nhẹ, dày mõng, tốt xấu mà trả giá cao thấp tùy theo từng loại. Kén hốt về phải đợi sau 3 ngày, tằm lộn thành nhộng, mới đem ươm lấy tơ, và còn được ăn con nhộng tươi ngon lành.

Muốn dệt lụa cần phải có tơ, công việc cũng không đơn giản đâu? Trước khi ươm tơ, công việc đầu tiên là kéo thao càng, thao kiệt. Đó là loại tơ xấu con tằm nhã ra trước tiên, lớp trong ¾ là loại tơ tốt nhất, óng ánh màu vàng tươi, hơi hơi đỏ tuyệt đẹp. Một hỏa lò đắp nổi đun vừa nóng hẩm nồi nước, khiến cho những cái kén nhã tơ ra dễ dàng. Bên cạnh lò đóng một cây cọc mà trên đầu có gắn một trục chỉ, làm tục quay kéo từng sợi chỉ thao đi qua. Tay phải người thợ cầm đôi đủa canh, tìm vớt lên một vài mối chỉ của cái kén rồi kéo lên móc vòng qua trục chỉ, tay trái dùng hai ngón trỏ và cái nắm lấy mối chỉ lôi lên từ từ, bỏ vào chiếc mũng trẹt, lớp nọ chồng lên lớp kia. Đôi đủa canh luôn luôn canh chừng, không cho cái kén chạy lên khỏi mặt nước và dính chùm lại với nhau. Cứ thế mà kéo hết phần xấu bên ngoài ra, đến lớp tốt dừng lại vớt ra ngoài, chuẩn bị cho phần việc ươm tơ. Phần sợi kéo ra từ lớp bên ngoài, sợi cứng thô kịch gọi là thao càng, dùng để dệt trủ đứng cá trong mùa nước lụt. Phần sợi kế tiếp có phần mềm hơn, màu vàng nhạt gọi là thao kiệt, loại sợi nầy dệt thành hàng thông dụng, may quần đùi áo cánh, bền hết sức. Sau nầy còn dùng dệt hàng tuýt xo, may âu phục cũng thịnh hành một thời. Lò ươm tơ đặt ngay trong nhà ở, hay căn trại cất riêng tùy theo thuận tiện của mỗi gia đình. Lò đắp nổi bằng đất sét trộn rơm khô, bao bọc cái nồi ươm bằng đất thật to, miệng rộng đến 5 tấc. Cửa lò đắp loe ra, nhô lên cao để giảm hơi lửa nóng và nhất là tránh khói cho người thợ ngồi ươm tơ. Một chiếc xa ươm đặt sát bên lò, đóng bằng gỗ hình thức như cái củi đựng chén bát, xa ươm có hệ thống lan đều sợi tơ trên cuồn xa, nhờ có trục hình trụ đường kính 10 phân bề cao 15 phân dựng đứng, quây tròn cùng một lúc với trục bằng sợi dây trân nối chuyền. Cuồn xa được gắn từ trục nằm ngang, có 5 cánh xa chữ T cố định và một cánh chữ T có thể tháo ra được, khi cần tháo nén tơ ra khỏi cuồn. Đầu trục có gắn tay quây để quây cuồn xa chạy vòng tròn liên hồi. Cung cấp đủ số kén cho một lò ươm, phải cần vài ba người kéo sợi thao từ trước, chuẩn bị đầy đủ cho một lò ươm. Một người đàn bà ngồi trên chiếc ghế vuông thấp, trên tay cầm đôi đủa canh, bắt lên 3 mối tơ (mỗi mối tơ do vài ba con kén nhã sợi tơ nhập lại) xỏ qua 3 cái lỗ có hình dạng như đồng tiền, tiện bằng gỗ, nằm trên hệ thống xa ươm, sát bên trên miệng nồi ươm. Tiếp đến nối chuyền đến khoen lỗ cây lan can của hệ thống, thẳng tới cuồn xa. Một người con trai xử dụng cả hai bàn tay, đánh tới, kéo lui trên tay quây để cuồn xa quây tròn đều đều một tốc độ, 3 mối tơ chạy lên và lan đều trên cuồn thành 3 nén tơ. Quang cảnh thật vui nhộn với tiếng xa ươm nghe rè rè, xình xịch, hòa lẫn với tiếng hát hò khoan, đượm tình quê hương trong cảnh thanh bình, thịnh vượng. Đến trưa hay chiều tối mới xả một lần, vớt nhộng ra và thay nước mới. Ở miền quê món nhộng chiên mặn ăn với cơm rất thông dụng, quen thuộc mọi nhà, và món nhộng trộn với búp chuối sứ xắt nhỏ, hay tép bòng, xúc bánh tráng nướng là món thổ sản địa phương, ăn ngon miệng và mát dạ, mọi người đều ưa thich. Một số con nhộng lẫn trong mớ tằm nín, không tróc lớp vỏ bọc bên ngoài, bu dính chùm trong mớ xác xả, đem nấu bỏ muối mặn cho teo lại, các bà, các cô gỡ ra từng con, ăn ghiền còn hơn lể ốc gạo rất nhiều. Sợi tơ ươm ra cũng dệt giống như dệt vải. Nhưng là loại hàng sang trọng, màu vàng nhạt láng mượt rất thanh nhã, trông rất đẹp mắt và bền chắt lắm đó. Tuy nhiên, hàng tơ lụa không mấy thông dụng ở vùng thôn quê, vì thuộc loại hàng sang, đắt tiền, nên chỉ bán được cho giới giàu có, hoặc bán ra nước ngoài thu lợi nhuận nhiều hơn.

Ngày nay trên quê hương, không còn thấy một chiếc khung cửi cổ điển thô sơ nào nữa, nghề dệt cổ truyền mất hẵn. Thay vào đó, hàng loạt khung cửi máy ra đời, chiếm mọi ưu thế. Hàng vải, lụa, dệt ra vừa nhanh lại vừa đẹp và bền chắt dài lâu. Thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi của giới tiêu thụ, và được ưa chuộng nhiều hơn. Còn đâu hình ảnh sinh hoạt linh động triều mến ngày xưa: từ khi thấy người ta gieo trồng cây bông vải, cho tới khi dệt thành khổ vải đem may mặc, và cách thức người ta trồng dâu nuôi tằm, cho đến khi ươm tơ, dệt lụa… Tất cả đã lùi về quá khứ xa vời. Ôi! Chỉ còn lại kỷ niệm trong ký ức nhạt nhòa, và luyến tiếc một thời xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức dĩ vãng đầy mến thương.
                                                                
 Đoàn Ngọc Nam

   

Không nổi bật hơn tiền nhiệm Vega note A890, Sky A900 có chiếm được lòng người hâm mộ???

21:59 |

Không như những siêu phẩm khác, trước khi chính thức ra mắt mọi thông tin liên quan đến chiếc Sky A900 đều bị nhà sản xuất Hàn Quốc bí mật đến phút cuối cùng. Chính vì thế mà ngay trong ngày ra mắt chiếc siêu phẩm này đã không được người dùng đánh giá cao. Nhiều người đã cho rằng chiếc Sky A900 này không khác gì so với người tiền nhiệm của mình, có chăng chỉ là một chỉ nâng cấp nhẹ. Vậy chiếc Sky A900 có thể tồn tại được bao lâu trong đấu trường công nghệ ngày càng gay gắt này.


Nếu chỉ nhìn thì đúng là chiếc Sky A900 không thay đổi mấy so với đàn anh A890 cả về thiết kế, cấu hình cũng như tính năng. Chính vì được thừa hưởng quá nhiều của người tiền nhiệm nên có thể với chiếc Sky S900 này là một trong những chiếc smartphone mang một thiết kế đẹp, kiểu dáng sang trọng, đặc biệt kích thước vô cùng hợp lý. Và không khó để cạnh tranh với những dòng smartphone có thiết kế quá khổ và thậm chí là thô kệch.


 Điều đặc biệt chính là công nghệ bảo mật nhận dạng vân tay, một trong cũng công nghệ bảo mật hàng đầu đã được tích hợp trên chiếc Sky A900. Được trang bị cảm biến vân tay ở mặt sau, có tác dụng hỗ trợ bảo mật, không chỉ mở khóa mà còn cả các nội dung cá nhân như danh bạ, ảnh, nhạc, video… cho chủ sở hữu máy. Có thể nói đây là một trong những yếu tố quyết định lựa chọn của người dùng.

Với mức giá khoảng 15 triệu mà người dùng phải bỏ ra chỉ chiếc Sky A900 là một lựa chọn hợp lý. Vì trên thì trường có nhiều dòng điện thoại với mức giá như trên nhưng không đáp ứng được tính năng bảo mật như chiếc siêu phẩm này. Nếu chúng ta quan sát kỹ thì chiếc Sky A900 còn có thêm một chiếc camera cùng kích thước hình dạng với chiếc nút cảm biến vân tay so với chiếc Sky A890. Đồng thời mặt lưng của máy còn có thêm một loa đặt song song với chiếc camera và nút cảm biến vân tay. Có thể chi tiết khác biệt này sẽ khiến người dùng yêu thích nó hơn là chiếc Sky A890.

Bện cạnh đó thì ngoài cấu hình không thay đổi mấy so với người tiền nhiệm thì máy được trang bị màn hình 5,6 inch độ phân giải Full HD cùng chip xử lý lõi tứ Snapdragon 800tốc độ 2.3GHz, đồ họa Adreno 330 và 2GB dung lượng RAM.

Được sở hữu camera chính 13MP, camera trước 2 MP do đó mà người dùng hoàn toàn có thể yên tâm về chất lượng hình ảnh của máy. Với những bức ảnh chân thực, sắc nét kèm theo màu sắc đẹp thì chiếc Sky A900 có thể đánh bại được nhiều dòng smartphone khủng hiện này.

Và hơn thế nữa người dùng thoải mái khi chơi game loại nặng mà không hề bị giật do được trang bị chip đồ họa Adreno 330. Đồng thời với lượng pin 3.150mAh thì người dùng hoàn toàn yên tâm sử dụng chat chit, lướt web, xem phim, chơi game với thời gian hơn 12 tiếng. Đây là một mức thời gian ấn tượng mà không phải chiếc smartphone nào cũng có thể mang lại. 

Kết luận
Mặc dù chiếc Sky A900 bị coi là phiên bản nâng cấp nhẹ của chiếc Sky A890 nhưng nó vẫn có thể tồn tại và đánh gục được nhiều chiếc điện thoại smartphone đình đám hiện này. Chính vì những ưu việt mà nó mang lại và những trải nghiệm tuyệt vời khi sử dụng sẽ chinh phục được người dùng.

Ra mắt Sky A900 - Pantech Vega Secrer Up ( IM-A900 S/K/L)

21:54 |



1386154975414_3nwxlly0.jpg 04.jpg

Chính thức 11 giờ trưa theo giờ Hàn Quốc và 9h theo giờ Việt Nam Pantech đã cho ra mắt chiếc điện thoại đầu tiên mang mã đầu IM-A9XX theo số thứ tự. Có lẽ cũng chính vì sự đặc biệt đó mà Pantech đã cố gắng giấu kĩ tất cả các thông tin của mình kể cả một bức ảnh rò rỉ cũng không lọt ra ngoài.

Không giống như những tin đồn đoán trước đây về một phiên bản Vega Iron 2 nâng cấp phần cứng mà chiếc máy này mang tên Vega Secret Up cũng không được trang bị viền sắt thương hiệu như trên A870. Đây có lẻ là một điều làm cho nhiều bạn yêu thích SKY VEGA cảm thấy buồn.

Tin chính thức từ trang chủ Vega cho thấy Vega  có màn hình 5,54" độ phân giải Full HD bởi theo nhà sản xuất một màn hình 5,9" là một màn hình quá  lớn đối với người dùng châu Á và 5,54" là một kích thước phù hợp với người dùng.

1386155517914_1l71s5qc.jpg 1386155518070_4859z4.jpg

Phiên bản này gần như là một sự thu gọn của chiếc Vega Secret Note mới ra trước đây cùng với một số thay đổi về thiết kết cụm camera và cảm biến vân tay khá giống với chiếc Vega R3, Vega Lte A trước đó.

1386155518164_6gu0tn.jpg 1386155518195_7xsfzhu.jpg

Cấu hình chi tiết của Vega Secret Up:
- Chip Soc Snapdragon 800 xung nhịp 2,3Ghz
- Ram 2GB DDR3 bộ nhớ trong 16GB Hỗ trợ thẻ nhớ ngoài 2TB
- Màn hình 5,4" Độ phân giải Full HD
- Camera 13MP và 2MP
- Kích thước 151.4 x 76.4 x 9.5 mm Chỉ có hai màu trắng/đen và nặng 173g.
- Chất liệu cấu trúc vỏ Nhựa policacbonat.
- Máy được trang bị phím cứng cùng 3 phím điều hướng ảo.
- Có hỗ trợ cảm biến vân tay.
- Pin 3150mAh.

Khi chiếc máy này về tới Việt Nam thì Tekcafe sẽ là người đầu tiên hỗ trợ các bạn về recovery và các yếu tố cơ bản để chiếc máy này có thể được phát triển hơn nữa.

Dưới đây là một vài hình ảnh của máy.

1386155518070_4859z4.jpg 1386155518101_5cuzu47.jpg

Được tạo bởi Blogger.

Health

THÔNG TIN LIÊN HỆ

Viết bởi Nguyễn Công Phúc
Điện thoại liên hệ: 0976 300 350
Địa chỉ Email: ncphuc@hotmail.com
Yahoo: ncphuc2008
Quê quán: Chiêm Sơn, Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam
Địa chỉ hiện tại: 9/4 Nguyễn Du, KP. Bình Đáng, P. Bình Hòa, TX. Thuận An, Bình Dương

Người theo dõi