HỘI ĐỒNG HƯƠNG H. DUY XUYÊN, QUẢNG NAM TẠI TP.HCM

00:53 |

HỘI ĐỒNG HƯƠNG H. DUY XUYÊN, QUẢNG NAM TẠI TP.HCM

















HỌP MẶT HỘI ĐỒNG HƯƠNG H, DUY XUYÊN TẠI TPHCM, 25/2/2012





Duy Xuyên: Xóm nghèo nuôi con học giỏi

02:12 |
Về xóm Thi Thôn, thôn Thi Lai, xã Duy Trinh (Duy Xuyên) trong những ngày này, đi đến đâu cũng râm ran niềm vui chuyện 4 em học trò nghèo nỗ lực vượt khó thi đỗ vào các trường Đại học danh tiếng mà ngỡ như chuyện cổ tích. 4 em cùng học chung một lớp, thương nhau như chị em ruột, luôn giúp đỡ nhau trong học tập thậm chí có lúc đi học trễ cũng không bỏ nhau nên các bạn trong lớp 12/A1 trường Trung học phổ thông (THPT) Sào Nam (Duy Xuyên, Quảng Nam) đặt cho 4 bạn cái tên thân thương là “Tứ quý đầm”. Nhóm “Tứ quý đầm” học rất giỏi, trong đó em Ngô Thị Hồng Thắm lực học vượt trội hơn các bạn. Một đặc điểm nữa là 4 em này đều học ban A (Toán, Lý, Hoá) nhưng lại thích đi ngành Y và cả 4 em đều thi đậu điểm cao cả 2 trường: Đại học Y khoa Huế, chuyên ngành đa khoa và Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Đà Nẵng.
Từ trái sang phải: Thắm, Trúc, Nga, Thúy
Gia đình em Ngô Thị Hồng Thắm rất khó khăn. Ba mẹ đều bị bệnh tim và cao huyết áp. Thu nhập của gia đình chỉ là những đồng tiền gia công dệt vải ít ỏi từ 4 khung cửi dệt. Khó khăn nhưng bố mẹ Hồng Thắm rất coi trọng việc học và nuôi hai cô con gái học hành đến nơi, đến chốn. Chị gái của Hồng Thắm là Ngô Thị Yến, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Nẵng và đang dạy cấp II ở huyện Đông Giang. Biết phận con nhà nghèo, Hồng Thắm quyết tâm học giỏi để sau này có việc làm ổn định giúp đỡ bố mẹ. Liên tục 12 năm học, Ngô Thị Hồng Thắm đều đạt học sinh giỏi, trong đó năm lớp 10 và 11, Hồng Thắm đạt học sinh giỏi nhất khối 10 và 11 của trường và em được nhận học bổng VALLET của tổ chức RENCONTRESDU Việt Nam với giá trị 5 triệu đồng. Em thi đỗ vào trường Đại học Y khoa Huế với số điểm 26,5 và trường đại học Kinh tế Đà Nẵng với số điểm 24,5 (chưa cộng 1 điểm ưu tiên vùng nông thôn). Hồng Thắm tâm sự: “Em chọn ngành Y bởi vì nghề thầy thuốc rất cao quý, họ đã cứu lấy mạng sống nhiều người. Hơn nữa em thấy ba, mẹ mình đau ốm nên muốn theo ngành Y để sau này có điều kiện chữa bệnh cho ba, mẹ. Đậu đại học em cũng rất biết ơn thầy giáo chủ nhiệm Phạm Kim Long, trong suốt 3 năm học THPT, em luôn nhận được nhiều lời động viên, chia sẻ và giúp đỡ vật chất của thầy. Những tình cảm trìu mến thầy Phạm Kim Long dành cho em đã giúp cho em có thêm nghị lực vượt qua khó khăn để học tốt”. Đỗ 2 trường đại học nhưng gương mặt trắng gầy của Hồng Thắm có chút lặng buồn và những giọt nước mắt rưng rưng vì lo không có tiền vào đại học.
Em Lê Thị Trúc là chị cả của 3 em nhỏ trong gia đình nên thời gian học tập của em bị chi phối hơn các bạn. Ngoài việc học ở trường, em về nhà còn phải lo cơm nước, giặt giũ áo quần cho em, dạy 3 em nhỏ học ( một em lớp 10, một em lớp 5, một em lớp 1) để đỡ bớt tiền học thêm của ba, mẹ. Em còn phụ ba, mẹ dệt vải để tăng thêm thu nhập. Thời gian ôn thi đại học của em cũng rất eo hẹp nhưng kết quả điểm thi đại học của em rất khá ấn tượng, ai cũng cảm phục nghị lực của em. Em thi đỗ vào trường đại học Y khoa Huế với tổng số 23,5 điểm và trường đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh đạt 23 điểm (chưa cộng điểm ưu tiên vùng nông thôn). Đỗ 2 trường đại học nhưng Trúc chọn đại học Y khoa để sau này làm Bác sỹ. Em nói: “Bác sỹ dễ có cơ hội tìm việc làm. Hơn nữa trong gia đình phải có một người làm Bác sỹ để chữa bệnh cho người thân gia đình và chăm sóc sức khoẻ cho mọi  người ”. Thương ba, mẹ vất vả nuôi con, Lê Thị Trúc rất chăm học. Ở trường em tập trung nghe thầy cô giảng bài. Về nhà giải bài tập thật nhiều. Không có tiền mua sách giải tham khảo, em mựơn của các bạn hoặc photocoppy về nhà học. Những phương pháp giải bài tập hay em chép ra một quyển vở riêng để học. Trong suốt 12 năm học em đều đạt học sinh giỏi. Anh Lê Sáu, cha của Trúc với giọng nói nghèn nghẹn trong niềm vui lẫn nỗi lo tiền cho con trong suốt 6 năm đại học: “Cháu Trúc vào đại học nhà tôi sẽ mất đi một lao động phụ đắc lực, thu nhập gia đình sẽ giảm đi chút ít, lại không có ai bày cho các em nó học, khó khăn sẽ chồng chất hơn”.
Với Xa Thị Minh Thuý, Bác sỹ là ước mơ từ thuở bé của em. Ngoài kiến thức ở trường, về nhà em cần cù, chịu khó tìm tòi tài liệu bên ngoài để học nên nắm kiến thức các môn học rất chắc. Gia đình em cũng thuộc diện khó khăn. 5 khung cửi dệt gia công là thu nhập chính của gia đình để trang trải cuộc sống và nuôi hai anh em của Minh Thuý lần lượt vào đại học. Dù khó khăn nhưng cha mẹ em rất quan tâm tạo mọi điều kiện, thời gian cho Minh Thuý học tập. Xa Thị Minh Thuý đỗ vào Trường đại học Y khoa Huế với tổng số điểm 24, đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh với tổng số 22,5 điểm (chưa cộng điểm ưu tiên vùng nông thôn). Chị Võ Thị Loan, mẹ của Minh Thuý nhẩm tính mỗi ngày cho Minh Thuý 20 ngàn đồng mua thức ăn. Gạo, mắm thì mang từ nhà ra. Buổi sáng có thể ăn mì tôm hoặc bánh mì qua bữa. Tiết kiệm như vậy nhưng không biết lo cho con đựơc mấy năm. Trong những ngày này, chi Loan tạm ứng trước tiền gia công vải dệt ở Hợp tác xã dệt Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam 2 triệu đồng để mua sắm những đồ dùng thiết yếu chuẩn bị cho con nhập học.
Em Hà Thị Thuý Nga đậu đại học Y khoa Huế với tổng số 24,5 và đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh với số điểm 21. Thành tích 12 năm học của Thuý Nga cũng đáng khâm phục. 3 năm học THPT em luôn xếp vị thứ nhì, ba của lớp. Năm học 12 em được nhận học bổng VALLET của tổ chức RENCONTRESDU Việt Nam với giá trị 5 triệu đồng. Suy nghĩ của Hà Thị Thuý Nga cũng giống 3 bạn của mình là hướng về sức khoẻ con  người và em đã chọn trường đại học Y khoa Huế để học. Anh Hà sáu, cha của Thuý Nga nói trong niềm vui: “Con đỗ đại học, vợ chồng tôi mừng lắm. Suốt đời mình lam lũ rồi, bây gìơ cực khổ mấy tôi cũng lo cho con học hành đàng hoàng để tương lai nó tốt đẹp hơn bố mẹ”.
Niềm vui đỗ đại học của 4 em khó có thể tả hết nhưng nỗi lo cũng không ít. Ngày nhập học đã gần kề, các em đang đối mặt với những khó khăn về khoản học phí, các chi phí khác trong học tập, vấn đề ăn ở trong thời bão giá đối với những sinh viên nghèo.
Phan Lý

Lễ hội Bà Chiêm Sơn, Quảng Nam

02:08 |
Ngày 21/2, nhằm ngày 12 Tết Quý Tỵ, đông đảo nhân dân làng Chiêm Sơn và các vùng lân cận thuộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng Nam đã tham dự nghi thức tế lễ trang trọng, cầu mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu trong khuôn khổ Lễ hội Bà Chiêm Sơn, một lễ hội đã được công nhận là Di tích văn hóa phi vật thể cấp tỉnh.
Lễ hội Bà Chiêm Sơn được tổ chức vào các ngày mùng 10, 11, 12 tháng giêng hàng năm, với nhiều nghi thức truyền thống đặc sắc, mang tính gắn kết cộng đồng cao bởi sự tham gia của đông đảo người dân trong thôn, không kể già trẻ, không kể tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Sau lễ tế, toàn bộ các lễ vật được cúng tế đều trả lại cho dân trong làng.

Trong dịp lễ hội năm nay, dinh Bà Chiêm Sơn đã chính thức được khánh thành. Công trình được xây dựng từ đóng góp của nhân dân trong làng cùng con cháu đi làm ăn xa với tổng kinh phí gần 700 triệu đồng, trong đó huyện Duy Xuyên ủng hộ 100 triệu đồng , xã Duy Trinh ủng hộ 20 triệu đồng.

Được biết Dinh Bà Chiêm Sơn là một trong những nơi tín ngưỡng dân gian phổ biến trong nhân dân về thờ Mẫu - Mẹ xứ sở mà người địa phương thường gọi chung là Bà như các vùng khác trong tỉnh Quảng Nam. Tín ngưỡng dân gian này vừa tích hợp đa nguồn, vừa tiếp biến tín ngưỡng thờ nữ thần trong văn hóa Chăm Pa cổ để biến thể trở thành tín ngưỡng của làng xã Việt Nam mà Dinh Bà Chiêm Sơn mà một minh chứng./.

Nguồn : Tin tức Du lịch

Lễ hội bà Thu Bồn Quảng Nam

02:06 |
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Sáng nay 30/3, hàng vạn người dân các làng ven sông Thu Bồn đã về dự lễ hội bà Thu Bồn tại xã Duy Tân, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam). Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá và lớn vào bậc nhất của Quảng Nam được tổ chức vào dịp 12 tháng 2 âm lịch hàng năm.
Chuyện kể rằng, bà là công chúa vua Mây, khi bị giặc bao vây kinh thành, nhà vua và công chúa cưỡi ngựa chạy lên Phường Rạng bị ngã ngựa chết. Xác công chúa trôi về làng Thu Bồn, dân trong làng đã vớt xác bà đem chôn. Năm đó làng Thu Bồn có bệnh dịch đậu mùa, bà linh ứng cho thuốc cứu người thoát dịch.
Cũng có truyền thuyết cho rằng, bà là nữ tướng Chăm, khi chiến đấu bị bao vây đến chết, xác bà trôi về làng Thu Bồn. Năm đó làng Thu Bồn hạn hán, mất mùa, nhân dân đói khổ cơ hàn, bà linh ứng về giúp dân chống đói, mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hoà.
Năm nay lễ hội bà Thu Bồn ngoài phần lễ với các nghi thức rước ánh sáng, lễ rước nước, lễ cộ bà… cầu quốc thái dân an, phần hội năm nay đặc sắc với các tiết mục văn nghệ múa chăm, diễn kịch truyền thuyết bà Thu Bồn (còn gọi là mẹ Thu Bồn), hát Bài Chòi, ẩm thực, đua thuyền và đêm thơ, nhạc giao lưu giữa các văn nghệ sĩ, nhà báo và du khách gần xa về tham dự lễ hội...
Dưới đây là những hình ảnh PV Tòa Soạn ghi nhận tại lễ hội bà Thu Bồn.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Từ sớm mờ sương thuyền dân từ các làng ven sông đã về dự lễ hội.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Hàng vạn người dân nô nức về trẩy hội.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Lễ rước nước từ thượng nguồn sông Thu Bồn về làng.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Lễ rước cộ bà Thu Bồn từ bãi bồi ven sông về Dinh.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Dâng lễ vào lăng mộ Bà Thu Bồn.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Vật tế thiêng.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Mâm ngũ quả và đặc sản của làng dâng lên mẹ Thu Bồn.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Đại lễ cầu quốc thái dân an.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Diễn tuồng ba ông Phước - Lộc - Thọ về xem lễ hội.
Le hoi ba Thu Bon Quang Nam
Khách nước ngoài thích thú dõi theo lễ hội.
K.H - LTQ
Việt Báo (Theo_DanTri

Lặng lẽ làng nghề chổi đót Chiêm Sơn - Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam

02:00 |

Hàng ngày có rất nhiều du khách đến với Mỹ Sơn hay các di tích văn hóa – lịch sử cấp quốc gia, cấp tỉnh trên địa bàn thôn Chiêm Sơn (Duy Trinh, Duy Xuyên), nhưng cái tên làng nghề chổi đót Chiêm Sơn lại ít người để ý đến…

Chổi đót
Chổi đót
Hàng ngày có rất nhiều du khách đến với Mỹ Sơn hay các di tích văn hóa – lịch sử cấp quốc gia, cấp tỉnh trên địa bàn thôn Chiêm Sơn (Duy Trinh, Duy Xuyên), nhưng cái tên làng nghề chổi đót Chiêm Sơn lại ít người để ý đến…
Trăn trở
Sự nhộn nhịp của làng quê thời đổi mới vẫn không làm mất đi nét truyền thống của làng nghề chổi đót lâu đời Chiêm Sơn. Ông Lưu Công Cả – Chủ tịch UBND xã Duy Trinh cho biết: “Không đông như hồi xưa, nhưng thôn Chiêm Sơn chừ cũng có đến hơn 50 hộ làm nghề chổi đót. Ngoài những hộ làm chổi nhỏ lẻ thì có đến gần 10 hộ làm ăn lớn, có thuê nhân công và chuyên môn hóa ở từng công đoạn”. Ông Cả nhớ lại, từ thời ông sinh ra đã thấy cả làng Chiêm Sơn làm chổi, và nghe cha mình kể lại thì làng nghề đã có từ lâu lắm. Hồi xưa, không phải như bây chừ, ở núi Đồng Lớn (Duy Sơn) đót mọc dày đặc, người Chiêm Sơn lên núi bứt đót làm chổi rồi đem ra bán ở chợ Vỏ gần đó. “Làng nghề vẫn tồn tại đấy thôi, nhưng có lẽ ít ai biết về nó. Cũng chẳng hiểu tại sao nữa. Xã đã có nhiều biện pháp để giữ vững và khôi phục nhưng làng nghề chưa phát triển tới mức có thể lập hồ sơ công nhận là làng nghề truyền thống” – ông Cả nói.
Ông Nguyễn Nhất Tuấn (đội 13, thôn Chiêm Sơn) vẫn nhớ như in về thời hưng thịnh của làng nghề. Vào những năm 1980, ở Duy Xuyên có một công ty của nhà nước chuyên về xuất nhập khẩu nên sản phẩm của làng nghề được đưa sang các nước lân cận. Đến năm 1990, công ty giải thể, làng nghề chỉ còn cung ứng sản phẩm cho địa bàn Quảng Nam – Đà Nẵng. Hiện ông Tuấn là chủ một cơ sở làm chổi đót lớn nhất ở Chiêm Sơn với 20 người làm công, sản xuất đủ các loại từ chổi bện mây truyền thống đến chổi quấn dây thép hoặc dây cước, cán thân đót hoặc cán nhựa bắt vít… Khi chúng tôi đến thăm cơ sở, có một nhóm khách người nước ngoài du lịch theo tuyến Hội An – Mỹ Sơn ghé vào tham quan. Ông vừa hướng dẫn cho khách làm thử từng công đoạn vừa giới thiệu cho họ những sản phẩm. Ông Tuấn cho biết: “Cơ sở của tôi ở trong hẻm nhưng khách du lịch ghé vô rất nhiều. Cũng như những hộ khác trong làng nghề, tôi cho tham quan miễn phí”.
Theo ông Tuấn, các công ty du lịch ở Hội An thường liên hệ với ông để đưa khách tới tham quan. “Bằng việc liên kết với du lịch, làng nghề có cơ hội mới để phát triển. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là vốn” – ông Tuấn nói. Núi đồi Duy Xuyên giờ đã thưa dần đót, cơ sở của ông Tuấn phải lấy đót nguyên liệu từ tận Đắc Lắc, Kon Tum. Vào cuối tháng chạp là đót có chất lượng tốt nhất và giá rẻ nhất, nhưng với số vốn ít ỏi ông chỉ có thể mua trữ 15 tấn nguyên liệu (cần cho cả năm phải gần 50 tấn) nên hiện tại nguyên liệu hết, ông phải mua đót kém chất lượng nhưng giá lại cao.
Chổi đót
Chổi đót
Hướng nào phát triển?
Ông Lưu Công Cả cho biết, trong mấy năm qua, xã khuyến khích phát triển bằng cách liên hệ với Liên minh hợp tác xã tỉnh thành lập tổ hợp tác cho làng nghề để được hưởng sự hỗ trợ từ các chính sách của nhà nước. Hơn nữa, sản phẩm ở làng nghề bán cho các thương lái có giá từ 8 – 18 nghìn/cây, trong khi đó, thương lái bán ra thị trường với giá 20 – 30 nghìn đồng. Sự chênh lệch giá quá lớn như vậy sẽ được giải quyết khi thành lập tổ hợp tác vì sẽ định hướng được đầu ra cho làng nghề. Và cách đây khoảng 2 tháng, xã đã phối hợp với Phòng Kinh tế hạ tầng, Trung tâm Dạy nghề và giáo dục thường xuyên huyện mở lớp tập huấn cho người dân. Nhưng để cho người dân tham gia tổ hợp tác thì rất khó, bởi mỗi hộ kinh doanh ở đây đã tạo cho mình những mối làm ăn riêng mà không muốn… san sẻ. Và, chổi đót Chiêm Sơn chưa được công nhận là làng nghề truyền thống nên xã chưa thể kêu gọi sự hỗ trợ.
Trong khi đó, ông Tuấn bày tỏ: “Tôi đã tính toán kỹ rồi. Chỉ cần Nhà nước cho mỗi hộ chúng tôi vay ưu đãi trong vòng 2 quý đầu của mỗi năm, đến cuối quý 2, bằng việc sử dụng vốn quay vòng, chúng tôi sẽ trả cả gốc lẫn lãi”. Cùng chung tâm sự, ông Phạm Văn Sơn (tổ 9, thôn Chiêm Sơn) nói: “Thời điểm này, đót hết chúng tôi vẫn tiếp tục sản xuất nhưng không có lời, chủ yếu làm để cầm cự và để tạo công ăn việc làm cho bà con. Chúng tôi đang rất cần Nhà nước hỗ trợ bằng các chương trình vay vốn ưu đãi”.
Ở những làng chổi khác, bám trụ với nghề chỉ có người già, phụ nữ, còn ở Chiêm Sơn vẫn có người trẻ tuổi. Ở đây, làng nghề đã tận dụng những lao động nông nhàn, còn giúp cho đời sống người dân thêm khấm khá. Bằng cách làm ăn theo sản phẩm, trung bình mỗi người cũng kiếm được khoảng 100 nghìn đồng/ngày dù làng nghề vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng. Ông Cả khẳng định, nếu làng nghề được vực dậy thì sẽ đẩy mạnh được việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Hơn nữa, không chỉ nằm trên tuyến du lịch Hội An – Mỹ Sơn, ngoài làng nghề chổi đót, Chiêm Sơn có nhiều di tích cấp tỉnh và cấp quốc gia như lăng Đoàn Quý Phi, Mạc Thị Giai, chùa Vua, dinh bà Chiêm Sơn, di tích khảo cổ học Triền Tranh, Gò Lội – Gò Lụi, khảo cổ học Gò Gạch. Như vậy, việc phát triển làng nghề cũng là tạo thế mạnh cho phát triển du lịch…
Theo langngheviet

Làng nghề đúc đồng Phước Kiều - Điện Bàn, Quảng Nam

01:25 |
Xã Điện Phương, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Phước Kiều là làng nghề đúc đồng nổi tiếng, đặc biệt về kỹ thuật đúc cồng chiêng.
Nghề đúc đồng ở Phước Kiều được hình thành do một người tên là Dương Tiền Hiền di cư từ Thanh Hóa vào truyền dạy. Cuối thế kỉ 18, ở đây đã hình thành hai khu vực là phường tạc tượng Đông Kiều và phường chú tượng Phước Kiều. Đến đầu thế kỉ 19, triều Nguyễn sát nhập 2 phường lại thành “xã hiệu Phước Kiều”, còn được gọi là làng đúc đồng Phước Kiều .
Cũng như các làng nghề đúc đồng khác, để chế tác ra một sản phẩm đồng hoàn chỉnh, người thợ làng Phước Kiều phải tiến hành các công đoạn như: làm khuôn, sơn khuôn, nấu đồng và đúc đồng. Tuy nhiên, họ còn có bí quyết pha hợp kim riêng như: đồng đỏ, đồng thau (đồng pha thiếc), đồng xanh (đồng pha kẽm), đồng thoà (đồng pha vàng)... Ngoài ra, các nghệ nhân Phước Kiểu phải có kỹ thuật thẩm âm để tạo ra sản phẩm có tiếng vang, phù hợp với phong tục, tập quán và văn hóa tâm linh của từng tộc người. Điều này đòi hỏi người thợ Phước Kiều phải có đôi tai tinh nhạy, sự từng trải, am hiểu và kinh nghiệm cảm nhận âm thanh tinh tế.
Trước đây, làng chỉ đúc những sản phẩm truyền thống như chiêng, chuông, thanh la, chân đèn, lư hương, đồ gia dụng... Đặc biệt, sản phẩm cồng chiêng của Phước Kiều đã có mặt ở hầu khắp các bản làng dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Hiện nay, các nghệ nhân Phước Kiều còn chế tác đồ trang trí nội thất cho các khu du lịch, biệt thự hay khí nhạc theo yêu cầu. Năm 2004, các nghệ nhân của làng đã đúc hai khẩu súng thần công bằng đồng và thiếc, theo đúng nguyên bản từ thời Nguyễn. Mỗi khẩu súng có trọng lượng 100kg, dài 1,2m, đường kính họng súng 25cm.
Đến với làng đúc đồng Phước Kiều, ngoài việc mua sắm các vật dụng, đồ lưu niệm, du khách còn có cơ hội trực tiếp tham gia vào các công đoạn sản xuất đồng và được xem các nghệ nhân biểu diễn các loại nhạc cụ cồng chiêng do chính họ chế tạo ra. Ngoài ra, với vị trí địa lý thuận lợi, nằm kề bên Quốc lộ 1A và trên trục nối hai di sản văn hoá thế giới là Đô thị cổ Hội An và Khu đền tháp Mỹ Sơn, làng nghề đúc đồng Phước Kiều đã trở thành một trong những điểm du lịch hấp dẫn của Quảng Nam. Đặc biệt, tháng 10/2006, Phước Kiều đã được Tổng cục Du lịch chọn làm điểm tham quan của Bộ trưởng Du lịch các nước tham dự Hội nghị APEC 2006

Làng dâu tằm Đông Yên - Thi Lai, Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam

01:23 |
Cũng như làng dệt Mã Châu, từ những thế kỷ trước làng Đông Yên - Thi Lai đã nổi tiếng với nghề trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải với những mặt hàng phổ biến như lãnh, sa nhiễu, đũi, the, đệm...từng theo chân các thương thuyền ngoại quốc đi khắp vùng biển Đông. Ở thời điểm hưng thịnh nhất, làng nghề này có diện tích trồng dâu lên đến 160 ha và có gần 200 hộ tham gia sản xuất tơ lụa theo phương thức thủ công. Do biến động của lịch sử, cùng với nhiều nghệ nhân của làng dệt Mã Châu, các nghệ nhân làng Đông Yên - Thi Lai cũng đã làm cuộc hành trình vào Nam và góp phần tạo lập nên những làng dệt có qui mô lớn như Bảy Hiền, Gò Vấp... tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.ày nay.
Làng dâu tằm Đông Yên - Thi Lai thuộc xã Duy Trinh - huyện Duy Xuyên.

Làng lụa Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam

01:21 |
Làng Đông Yên-Thi Lai, xã Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Duy Trinh là ngôi làng nổi tiếng về nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa.
Lụa ở đây nổi tiếng khó có nơi nào sánh kịp. Trong lịch sử, ở thời điểm hưng thịnh của ngành trồng dâu, nuôi tằm tại địa phương, diện tích dâu lên đến 160ha và gần 200 hộ tham gia nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa, dệt vải.
Đến thăm làng nghề du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các công đoạn và thao tác để tạo ra những sản phẩm nổi tiếng.

Làng dệt Mã Châu - Duy Xuyên, Quảng Nam

01:19 |
Hình thành từ thế kỷ 15, bên cạnh kinh đô Trà Kiệu, làng Mã Châu chuyên dệt lụa cung cấp cho giới quý tộc, quan lại trong các vương triều. Các công việc trồng dâu, chăn tằm, ươm tơ, dệt lụa đều được thực hiện trong làng, với sự tham gia của hàng trăm hộ gia đình theo phương thức thủ công.
Khi xứ Đàng Trong - Việt Nam mở cửa giao thương với thế giới bên ngoài qua cảng thị Hội An thì tơ lụa Mã Châu là mặt hàng được xuất khẩu nhiều nhất. Từ cuối thế kỷ 19, khi người Pháp đến Việt Nam, làng Mã Châu có thêm nghề trồng bông, dệt vải nhưng tơ lụa vẫn là mặt hàng chủ yếu. Trong thời kỳ này, phương thức sản xuất của làng nghề đã được cải tiến đáng kể, từ chỗ sử dụng các khung dệt hoàn toàn thủ công chuyển sang bán cơ giới, rồi tiến đến tự động hoá như ngày nay.
Làng dệt Mã Châu có vóc dáng đặc trưng của một làng quê Việt Nam yên bình với những khu vườn xanh tốt, những hàng cau, hàng chè tàu thẳng lối đi và những gương mặt thân thiện, luôn nở nụ cười đón khách của chủ nhân. Do nằm ngay trên tuyến đường từ Hội An đi Mỹ Sơn, làng dệt Mã Châu thuận tiện để du khách viếng thăm. Làng nghề Mã Châu thuộc thôn Châu Hiệp - thị trấn Nam Phước, cách trung tâm huyện lỵ Duy Xuyên khoảng 3 km về phía Đông.

Làng mộc Kim Bồng - Hội An

11:35 |

Làng mộc Kim Bồng thuộc xã Cẩm Kim nằm bên kia sông Hội An. Làng Kim Bồng đã nổi tiếng rất lâu với nghề chạm trổ, điêu khắc gỗ.
Nghề Bộc của Làng có nguồn gốc từ miền Bắc. Qua quá trình giao lưu, các nghệ nhân mộc Kim Bồng đã tiếp thu một số nét tinh hoa của các truyền thống điêu khắc chạm trổ Chiêm Thành , Trung Hoa, Nhật Bản… kết hợp với tài hoa điệu nghệ của mình đã làm nên những sản phẩm mang đầy tính mỹ thuật và triết học.
Cổng vào làng nghề
Làng vốn rất nổi tiếng về nghề mộc của mình vì hầu hết các kiến trúc cổ kính của Hội An đều do bàn tay tài hoa của cha ông họ dựng nên từ những ngày vàng son của thương cảng mậu dịch quốc tế Hội An.
Xưởng mộc
Kỹ thuật của thợ mộc Kim Bồng quả là tuyệt hảo. Những tác phẩm chạm khắc của họ trên các đầu kèo, trên xiên, trên trính, trên án thư, bàn thờ, và cả bàn ghế, tủ, khay, đều là những kiệt tác mà bất cứ ai được trông thấy cũng phải trầm trồ, xuýt xoa thán phục.


Một sản phẩm tranh gỗ của Kim Bồng
Nói tóm lại, những gì thợ mộc Kim Bồng đã làm thì đẹp và hoàn hảo đến mức không thể nào chê. Thợ mộc Kim Bồng ngày nay vẫn giữ được nghề mình sống với Hội An muôn đời cổ kính tuy nhiều người trong họ chuyển sang đóng, sửa tàu thuyền cho ngư dân các tỉnh Trung bộ Việt Nam và một số khác cứ hăm hở lao vào công tác trùng tu, sửa chữa các di tích của Khu phố cổ hoặc tạc tượng, điêu khắc trên gỗ, sản xuất đồ gỗ và hàng lưu niệm để bán cho du khách và xuất khẩu ra nước ngoài.


Nhóm tượng Đạt Ma - Di Lặt và một số bình chai lọ



Tiên Ông và Đào Tiên (tượng Thọ Tinh Quân)



Kiếm Gỗ



Làng nghề dưới bóng mát dàn hoa giấy



Hình nhân gỗ



Nghệ nhân trẻ



Sản phẩm cao cấp
Hiện nay, làng nghề Kim Bồng có 01 cơ sở dạy nghề, đã đào tạo 2 khóa học với tổng số 40 người. Không chỉ bó hẹp trong làng Kim Bồng, nghề mộc hiện đã phát triển mạnh, hình thành khu làng nghề tại xã Cẩm Kim, thị xã Hội An. Trong khu vực phố cổ Hội An có cơ sở mộc của ông Đinh Văn Lời, cơ sở mộc Tân An

"Ẩn sĩ" bên mộ Hàn Mạc Tử

11:03 |
Về Quy Nhơn (Bình Định), tôi nghe người bạn bật mí: Bây giờ ở mộ Hàn Mặc Tử có một người rất lạ, yêu thơ Hàn như một tín đồ, và đặc biệt anh còn viết thơ Hàn bằng lửa trên giấy và gỗ tặng, bán cho khách. Chúng tôi đến nơi và thật sự bất ngờ về con người mà một thời được người đời chưa hiểu gán cho biệt danh “thi sĩ điên”.
Thi sĩ đa mang xứ Ghềnh
Dzũ Kha đọc thơ Hàn
Vừa lên đồi Ghềnh Ráng – nơi đặt mộ thi sĩ trứ danh Hàn Mặc Tử và nằm trong cụm danh thắng nổi tiếng: Ghềnh Ráng – Quy Hòa, tôi thấy một ngôi nhà gỗ xinh xắn (cách mộ Hàn Mặc Tử 30m) có bảng hiệu đề: “Lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử – Bút lửa Dzũ Kha”.

Rồi một người đàn ông trung niên, dáng cao, mái tóc dài đầy chất phiêu bạt đang thuyết minh cho một đoàn khách du lịch nghe. Anh giới thiệu tên anh là Dzũ Kha, còn người dân nơi đây và bạn bè thì gọi anh là “Ẩn sĩ xứ Ghềnh”.

Lúc trước, khi chưa có “ngôi nhà thơ” này (vì chưa được phép xây dựng), người ta thấy Dzũ Kha cứ mỗi chiều đều lên đồi Ghềnh Ráng ngồi thơ thẩn một mình, rồi cười, rồi đọc, rồi ghi ghi chép chép cho đến khuya hay khi trăng lên mới về, nên người ta tưởng anh là “khùng” hay bị “tâm thần”, người thấy tội nghiệp thì gán cho anh cái tên nhẹ nhàng hơn: “Thi sĩ điên”.

“Vì tôi yêu thơ Hàn Mặc Tử và kính trọng ông thật sự, nên việc người đời nghĩ xấu về tôi, tôi không cần giải thích”, anh tâm sự. Nhưng rồi với niềm yêu thơ Hàn cháy bỏng trong tim, cả chục năm trời anh lặn lội đến nhiều nơi để tìm kiếm, gặp nhân chứng sống, sưu tầm những bút tích, giai thoại về nhà thơ tài ba Hàn Mặc Tử.

Thế rồi qua thời gian, người ta và cả chính quyền mới “cảm” được tấm lòng và con người của anh và cuối cùng, ước mong của anh là xây dựng “Nhà lưu niệm thơ Hàn Mặc Tử – Bút lửa Dzũ Kha” được toại nguyện.

Trong cuộc hành trình sưu tầm bút tích và những câu chuyện về Hàn Mặc Tử đã cho Dzũ Kha nhiều kỷ niệm. Như lần đầu tiếp cận với nữ sĩ Mộng Cầm (bà mới vừa mất đầu năm 2007, tại Phan Thiết) rất khó khăn, nhưng rồi quá trình đi lại, nữ sĩ đã cảm nhận được con người thật và công việc của Dzũ Kha nên đã cung cấp cho anh nhiều tư liệu quý giá.

Tên thật của Dzũ Kha là Trương Vũ Kha, sinh năm 1960 tại Phù Cát (Bình Định). Anh tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TPHCM nhưng không hành nghề, mặc dù có nhiều nơi mời anh làm việc. Thế nhưng anh làm thơ để trả lời rằng: “Bạn lên phố thị xênh xang. Riêng ta ở lại đa mang xứ Ghềnh. Phồn hoa náo nhiệt lãng quên. Họa thi bút lửa sưởi bên mộ Hàn”. 
Lưu dấu thơ Hàn bằng lửa
Dzũ Kha không chỉ sưu tầm thơ, bút tích mà còn đọc thơ, viết thơ Hàn bằng lửa trên giấy, gỗ. “Người ta bút mực bút chì. Dzũ Kha bút lửa khắc ghi thơ Hàn” – câu thơ anh tự đặt và đọc cho mọi người nghe khi đến thăm anh.

Lâu nay, người ta viết chữ hay vẽ tranh bằng lửa trên gỗ chứ ít khi viết trên giấy vì rất khó (dễ cháy), thế nhưng Dzũ Kha lại làm được điều đó qua quá trình rèn luyện với bao lần thất bại. “Từ lúc bắt đầu viết bút lửa trên giấy cho đến khi viết được một bài thơ ngắn đầu tiên bán cho khách đến thăm mộ Hàn Mặc Tử, tôi phải tốn mất gần một năm trời”, anh cho hay. Tất cả thơ anh khắc đều là của Hàn Mặc Tử và anh cho rằng, đó là cách để lưu dấu và “truyền bá” thơ Hàn hay nhất.

Ngoài việc viết những vần thơ Hàn, anh còn vẽ nhiều bức tranh cũng bằng lửa trên gỗ về di tích – danh thắng Quy Hòa, mộ Hàn Mặc Tử, Ghềnh Ráng và nhiều cảnh đẹp ở quê hương Bình Định. Anh kể thêm, hồi mới lên đây ở, Ghềnh Ráng còn hiu quạnh lắm, ngày và đêm anh chỉ nghe tiếng thông reo, tiếng gió thổi, tiếng sóng biển vỗ rì rào.

Lúc buồn thì anh ra quét dọn mộ Hàn, trò chuyện với Hàn. Có những đêm trăng thanh – mùa trăng cũng là lúc người bị bệnh phong đau nhức nhất, anh lại làm thơ: “Đông về, thu lại, xuân sang. Cùng ai với ánh trăng vàng biển khơi. Thỏa lòng đuổi trót cuộc chơi. Chỉ mong tìm lấy một đời thương thôi”. “Hình như vì tôi gần gũi bên mộ Hàn Mặc Tử nên ông đã cho tôi những cảm xúc dạt dào để vẽ nên những bức tranh thấm đẫm chất thơ như vậy”, Dzũ Kha bộc bạch.

Kỹ thuật viết chữ trên giấy bằng bút lửa của Dzũ Kha hiện nay đạt đến độ điêu luyện không chỉ về kỹ thuật viết mà về mỹ thuật cao, vì vậy mà Đài Truyền hình Việt Nam và một số đài truyền hình khác đã đến làm phim về chân dung, công việc của anh. Rồi nhiều người yêu thơ Hàn Mặc Tử mỗi khi đến Quy Nhơn tìm đến anh để nghe anh đọc thơ, cùng đàm đạo thơ Hàn.
Nâng thêm giá trị cho di tích
Người ta thường nói rằng, một di tích hấp dẫn khách phương xa đôi khi không cần quá vĩ đại, quá đẹp, mà chỉ cần di tích đó có “cái hồn”, con người khéo léo biết “phả” vào đó những câu chuyện có thật hay những giai thoại hoặc nhân chứng sống. Nói không quá rằng Dzũ Kha đã góp phần làm được điều đó.

Anh không chỉ làm thơ mà còn đọc, ngâm thơ, bình thơ, thuyết minh, kể cho khách đến thăm nơi đây những câu chuyện sống động, bằng những hiện vật – bút tích đầy thuyết phục. Có rất nhiều người biết thơ, yêu và thuộc thơ Hàn, nhưng khi đến đây được nghe Dzũ Kha đọc, ngâm thì cảm thấy hay hơn, thú vị hơn và nhiều người tranh nhau mua những tập thơ, đĩa CD thơ của Hàn Mặc Tử do anh sưu tầm và xuất bản.

Nhiều người nói rằng, du khách đến tham quan Ghềnh Ráng, mộ Hàn Mặc Tử khi có Dzũ Kha thì cụm di tích này như có hồn hơn, nâng thêm giá trị về thơ và đời của Hàn Mặc Tử. Dzũ Kha cũng là một trong những người góp phần tôn vinh thêm thơ Hàn. Có thể nói vậy.

Châu Phong
Được tạo bởi Blogger.

Health

THÔNG TIN LIÊN HỆ

Viết bởi Nguyễn Công Phúc
Điện thoại liên hệ: 0976 300 350
Địa chỉ Email: ncphuc@hotmail.com
Yahoo: ncphuc2008
Quê quán: Chiêm Sơn, Duy Trinh, Duy Xuyên, Quảng Nam
Địa chỉ hiện tại: 9/4 Nguyễn Du, KP. Bình Đáng, P. Bình Hòa, TX. Thuận An, Bình Dương

Người theo dõi