Nguồn gốc tộc Nguyễn Văn - Xuyên Đông & Xuyên Tây, Duy An, Duy Xuyên, Quảng Nam

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2013
SƠ LƯỢC VỀ NGUỒN GỐC TỘC NGUYỄN VĂN
XUYÊN ĐÔNG & XUYÊN TÂY, DUY AN, DUY XUYÊN,
QUẢNG NAM

Thiết nghĩ:
“Chim có tổ, người có tông”, “Uống nước nhớ nguồn”. Đó là đạo lý muôn đời của dân tộc ta. Do đó việc thờ phụng tổ tiên được dân ta xem là lẽ trọng.
Trải bao đời, theo truyền miệng, vị Thủy tổ của tộc Nguyễn văn chúng ta quê từ đất Bắc đã theo chân Vua chúa vào Nam khai cơ lập nghiệp. Đọc lại những trang gia phả còn lưu giữ được, chúng ta cũng chẳng thấy có gì khác hơn.
Là con cháu, ai cũng đều ước mong có cơ duyên để tìm hiểu thêm về nguồn cội.
Nhân cơ hội Ban đại diện Đại tộc Nguyễn Quảng Nam - Đà Nẵng đã đề xướng phong trào tìm về nguồn cội, gia tộc chúng ta, các bậc thúc phụ đã khuyến cáo con cháu gắng công tham gia nghiên cứu sưu tầm làm sáng tỏ thêm về cội nguồn tiên tổ.
Căn cứ vào những tài liệu mà chúng tôi được xem do Ban đại diện tộc Nguyễn Quảng Nam-Đà Nẵng đã sưu tập được:
- Thế phổ Nguyễn đại tộc Quảng Nam-Đà Nẵng.
- Lịch đợi Nguyễn tộc tôn thân quan hệ đẳng phái.
- Duy Tân ngũ niên tôn đồ phụ lục.
- Tấu từ Bắc địa (đời Hậu Lê)
Cùng những chi tiết rải rác trong các sử sách, nay chúng tôi xin được lược dẫn những phần liên hệ.
Các chi nhánh họ Nguyễn ở nước ta, cả ba miền Bắc, Trung, Nam đều chấp nhận lấy Đức Thái tổ Nguyễn Bặc làm Thủy tổ và nhận vùng Gia Miêu, Tống Sơn, Thanh Hoá làm nguyên quán.
Ngài Nguyễn Bặc sinh năm 924, là người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình). Thân phụ là Nguyễn Huy, thân mẫu là Lê Thị Lược vốn khoan hoà nhân ái, đều được nhân dân quanh vùng quí trọng. Ông là bạn thời niên thiếu của Đinh Bộ Lĩnh, sau nầy cùng với Đinh Điền, Lưu Cơ, Trịnh Tú theo giúp họ Đinh đánh dẹp, chấm dứt loạn mười hai Sứ Quân vào thế kỷ X. Ngài là người có công trạng lớn trong việc đánh dẹp các sứ quân, thống nhất toàn quốc dưới tay vua Đinh, nên khi triều Đinh được thành lập, Ngài được phong tới tước Định quốc công. Ngài mất ngày 15-10- 979, thọ 55 tuổi.
Trong suốt 7 thế kỷ, từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XVI, họ Nguyễn đã có những Tiên tổ là những bậc công thần, danh tướng qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần cho đến Hậu Lê.
Tiếp theo đệ nhất tổ Định quốc công Nguyễn Bặc, Ban soạn thảo thế phả tộc Nguyễn Quảng Nam-Đà Nẵng mới chỉ sưu tầm liên kết thêm được 11 vị tổ, đến đệ thập tam tổ là Ngài Đô tướng công Nguyễn văn Chánh.
Ngài Nguyễn văn Chánh sinh năm 1368 mất năm 1419. Ngài làm quan dưới triều đại nhà Trần.
Vợ Ngài người họ Tống, Ngài có hai người con trai:
1. Nguyễn công Duẫn có nơi gọi Nguyễn Giang.
2. Nguyễn văn Phước có nơi gọi là Nguyễn ngọc Phác.
Con cháu hậu duệ của Ngài Nguyễn công Duẫn (Nguyễn Giang) dưới thời Trịnh Nguyễn phân tranh đã nối nhau kế truyền 9 đời Chúa (miền Nam), mãi đến năm 1802 lập nên vương triều nhà Nguyễn.
Con cháu hậu duệ của Ngài Nguyễn văn Phước (Nguyễn ngọc Phác được kế dẫn như sau:
開 創 始 

阮 玉 詩 妻 黎 氏 燕 先 祖 阮 正 族 犄 攏 圻 林 廣 代 奠 盤 府 阮 玉 朴 第 一 郎 之 男 子 生 下 四 代 至 阮 正 典
阮 玉 瑾 先 祖 阮 族  香  山 维 川 阮 玉 朴 第 二 郎 之 男 子
阮 德 富 妻 黃 氏 收 阮 玉 朴 第 三 郎 之 男 子 先 祖 阮 德 族 金 篷
阮 玉 校 妻 范 氏 理 阮 玉 朴 第 四 郎 之 男 子 先 祖 阮 玉 族 美 川 维 川
阮 德 稿 妻 黃 氏 英 阮 玉 朴 第  五 郎 之 男 子 先 祖 阮 玉 族 美 川 维 川
阮 德 稿 妻 李 氏 娘 阮 玉 朴 第 六 郎 之 男 子 先 祖 阮   德 族 阮 正 族 美 川 维 川

Phiên âm:
Khai sáng thuỷ tổ

Nguyễn ngọc Thơ thê Lê thị Yến tiên tổ Nguyễn chánh tộc Ỷ Lũng, Kỳ Lâm, Quảng Đợi, Điện Bàn phủ Nguyễn ngọc Phác đệ nhất lang chi nam tử sanh hạ tứ đợi chí Nguyễn chánh Điển.
Nguyễn ngọc Cẩn tiên tổ Nguyễn tộc Hương Sơn, Duy Xuyên Nguyễn ngọc Phác đệ nhị lang chi nam tử.
Nguyễn đức Phú thê Huỳnh thị Thu, Nguyễn ngọc Phác đệ tam lang chi nam tử tiên tổ Nguyễn đức tộc Kim Bồng.
Nguyễn ngọc Hiệu thê Phạm thị Lý Nguyễn ngọc Phác đệ tứ lang chi nam tử tiên tổ Nguyễn ngọc tộc Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.
Nguyễn đức Cào thê Huỳnh thị Anh Nguyễn ngọc Phác đệ ngũ lang chi nam tử tiên tổ Nguyễn ngọc tộc Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.
Nguyễn đức Cảo thê Lý thị Nương Nguyễn ngọc Phác đệ lục lang chi nam tử tiên tổ Nguyễn đức tộc, Nguyễn chánh tộc Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.

Lược dịch:
Khai sáng thuỷ tổ

Ông Nguyễn ngọc Thơ vợ là bà Lê thị Yến tiên tổ tộc Nguyễn chánh tại Ỷ Lũng, Kỳ Lâm, Quảng Đợi phủ Điện Bàn là con trai đầu của Ngài Nguyễn ngọc Phác sanh hạ bốn đời đến Nguyễn chánh Điển.
Ông Nguyễn ngọc Cẩn (còn gọi Nguyễn văn Cờ) tiên tổ tộc Nguyễn ở Hương Sơn, Duy Xuyên là con trai thứ nhì của Ngài Nguyễn ngọc Phác.
Ông Nguyễn đức Phú vợ là bà Huỳnh thị Thu con trai thứ ba của Ngài Nguyễn ngọc Phác tiên tổ tộc Nguyễn đức tại Kim Bồng.
Ông Nguyễn ngọc Hiệu vợ là bà Phạm thị Lý con trai thứ tư của Ngài Nguyễn ngọc Phác tiên tổ tộc Nguyễn ngọc Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.
Ông Nguyễn đức Cào vợ là bà Huỳnh thị Anh con trai thứ năm của Ngài Nguyễn ngọc Phác tiên tổ tộc Nguyễn ngọc Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.
Ông Nguyễn đức Cảo vợ là bà Lý thị Nương con trai thứ sáu của Ngài Nguyễn ngọc Phác tiên tổ tộc Nguyễn đức, Nguyễn chánh Mỹ Xuyên, Duy Xuyên.


Như vậy sáu vị kể trên là con trai của Ngài Nguyễn ngọc Phác (còn gọi Nguyễn văn Phước) cháu nội Ngài Nguyễn văn Chánh đều là những bậc khai sáng thủy tổ tộc Nguyễn văn tại vùng đất Quảng Nam-Đà Nẵng nầy.
Theo gia phả tộc của chúng ta, Thần tổ là Ngài Đại lang huý Cò.
Trộm nghĩ: Trải qua thời gian dài gần năm trăm năm, biết bao dâu biển của cuộc đời, việc nhớ ghi sao lục tránh sao khỏi tam sao thất bản, thêm vào đó sự phát âm của hai miền có phần lệch, cho nên từ “Cào” có thể trở thành “Cò”.
Nếu quả vậy, thì Ngài Nguyễn ngọc Cào chính là Ngài Nguyễn văn Cò, vị Thần tổ của tộc chúng ta. Tiên tổ nhiều đời của Ngài quê tại vùng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Hiện nay tại đây còn nhiều lăng mộ các bậc tiên tổ của Ngài.

開 創 始 祖 按 宅 令 阮 玉 稿 夫 人 黃 氏 英 貴 娘 生 下 六 男 一 女 一 郎 阮 文 晉 二 郎 阮 文  奏 三 郎 阮 文  薐  四 郎    阮 文 林 五 郎 阮 登 扶 六 郎 阮 玉 光 一 愛 女 阮 氏 貴 皆 有 品 给 官 制  銜   政  八 品 從 八 品 並 正 九 品 從  正  九 品 文 武    

Phiên âm:

Khai sáng thủy tổ Án trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào phu nhân Huỳnh thị Anh quý nương sanh hạ lục nam nhất nữ. Nhất lang Nguyễn văn Tấn, nhị lang Nguyễn văn  Tần, tam lang Nguyễn văn  Lăng, tứ lang Nguyễn văn Lâm, ngũ lang Nguyễn đăng Phò, lục lang Nguyễn ngọc Quang, nhất ái nữ Nguyễn thị Quý. Giai hữu phẩm cấp quan chế, hàm chánh bát phẩm tòng bát phẩm, chánh cửu phẩm tòng  chánh  cửu phẩm văn võ.

Lược dịch:
Khai sáng thủy tổ Ngài Án trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào và phu nhân Huỳnh Thị Anh  sanh hạ sáu trai một gái. Người thứ nhất Nguyễn văn Tấn, người thứ nhì Nguyễn văn T ần, người thứ ba Nguyễn văn  Lăng, người thứ tư Nguyễn văn Lâm, người thứ năm Nguyễn đăng Phò, người thứ sáu Nguyễn ngọc Quang và ái nữ Nguyễn thị Quý. Tất cả đều có phẩm cấp văn võ quan chế, phẩm hàm chánh bát phẩm tòng bát phẩm, chánh cửu phẩm tòng cửu phẩm.
Như vậy, trưởng nam của Ngài là Nguyễn văn Tấn, đối chiếu với gia phả hiện có của chúng ta, Ngài chính là thủy tổ của tộc Nguyễn văn chúng ta.

阮 曰 族 原 茶 亭 升 花 府 阮 貴 公 諱  奏 之 靈 生 下 高
 始 祖 阮 曰 統 大 郎 護 駕 官 與 貴 娘 生 下 三 郎 曰 仕 曰 壹 曰 科 後 改 阮 廷 族
高 始 祖 阮 玉 稿 按 宅 令 宗 門 


Phiên âm:

Nguyễn viết tộc nguyên Trà Đình Thăng hoa phủ Nguyễn quý công huý Tần chi linh sinh hạ Cao Thủy Tổ Nguyễn viết Thống Đại lang hộ giá quan dữ quý nương sinh hạ tam lang Viết Sĩ, Viết Nhứt, Viết Khoa hậu cải Nguyễn đình tộc.
Cao thuỷ tổ Nguyễn ngọc Cào Án trạch lệnh tông môn.

Lược dịch:

Tộc Nguyễn viết, nguyên tại Trà đình phủ Thăng hoa, Nguyễn quý công huý Tần sinh hạ Cao Thủy Tổ Đại lang Nguyễn viết Thống là quan hộ giá cùng quý nương sinh hạ ba người con trai là Viết Sĩ, Viết Nhứt, Viết Khoa. Sau đổi lại là tộc Nguyễn đình. 
Đó là tông môn của Ngài Cao thủy tổ Án trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào.

阮 文 林 阮 文  二 位 開 創 阮 文 族 與 鄧 高 張 陳   武 等 族 立 社 號  美 川 東 後 改 新 美 東 维 川 由 阮 文 稿 生 下 又 有 阮 文 晉 阮 文  皆 阮 玉 之 內 孫 阮 文 政 之 曾 孫




Phiên âm:

Nguyễn văn Lâm, Nguyễn văn Lăng nhị vị khai sáng Nguyễn văn tộc dữ Đặng, Cao, Trương, Trần, Trình, Phạm, Võ, đẳng tộc lập xã hiệu Mỹ xuyên đông hậu cải Tân mỹ đông Duy xuyên do Nguyễn văn Cào sinh hạ hựu hữu Nguyễn văn Tấn, Nguyễn văn Tần giai Nguyễn ngọc Phác chi nội tôn Nguyễn văn Chánh chi tằng tôn.

Lược dịch:

Ông Nguyễn văn Lâm, Nguyễn văn  Lăng, hai vị đã khai sáng tộc Nguyễn văn, cùng với các tộc Đặng, Cao, Trương, Trần, Trình, Phạm, Võ, lập xã hiệu Mỹ xuyên đông, sau đổi là Tân mỹ đông Duy xuyên, do Nguyễn văn Cào sinh hạ, lại có Nguyễn văn Tấn, Nguyễn văn Tần đều là cháu nội Ông Nguyễn ngọc Phác, cháu cố Ông Nguyễn văn Chánh.

前 熙 江 縣 後 改 维 川 縣 属 升 花 府 洪 德 時 第 二 年 高 始 祖 阮 靈 光 即 玉 光 生 高 祖 阮 文 卒 從 阮 主 征 占 城 廣 開 邊 疆 阮 朝 敕 封 阮 府 君 上 等 神
阮 靈 光 次 子 高 始 祖 阮 玉 稿 按 宅 令 何 潤 地 錦 諸 位 先 烈 有 功 開 墾 立 何 潤 日 繁 得 加 封 祿 爵 

Phiên âm:

Tiền Hy giang huyện hậu cải Duy xuyên huyện thuộc Thăng hoa phủ Hồng Đức thời đệ nhị niên Cao thủy tổ Nguyễn linh Quang tức Ngọc Quang sanh Cao tổ Nguyễn văn Tốt tùng Nguyễn chúa chinh Chiêm thành quảng khai biên cương Nguyễn triều sắc phong Nguyễn Phủ quân Thượng đẳng thần.
Nguyễn linh Quang thứ tử Cao thủy tổ Nguyễn ngọc Cào Án trạch lệnh Hà nhuận địa cẩm chư vị tiên liệt hữu công khai khẩn lập Hà Nhuận nhật phồn đắc gia phong lộc tước. 

Lược dịch:

Huyện Hy Giang sau đổi là huyện Duy Xuyên thuộc phủ Thăng Hoa. Năm thứ nhì đời Hồng Đức, Cao Thủy Tổ Nguyễn linh Quang tức Ngọc Quang sanh Cao tổ Nguyễn văn Tốt theo Chúa Nguyễn đánh Chiêm thành mở mang bờ cõi. Triều nhà Nguyễn sắc phong Nguyễn phủ Quân Thượng Đẳng Thần.
Nguyễn Linh Quang con thứ của Ngài án Trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào, cùng các vị tiên liệt có công khai khẩn lập thành xã Hà Nhuận ngày càng phồn thịnh được gia phong tước lộc.

Qua những buổi họp mặt hàng năm các chi họ Nguyễn thuộc huyện Duy Xuyên, chúng tôi được biết ngài Nguyễn Đăng Phò con trai thứ năm của Ngài Án Trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào chính là Thủy tổ tộc Nguyễn Đăng tại thôn Tiệm Rượu thuộc làng Xuyên Đông, huyện Duy Xuyên.
Theo những tài liệu kế dẫn trên, Ngài Nguyễn Văn Tấn đã cùng các bào đệ theo chân vua chúa vào Nam khai cơ lập nghiệp hoặc theo phò vua chúa trong công cuộc chinh Nam mở mang bờ cõi. Quý Ngài đều là Thủy tổ tộc Nguyễn ở các vùng thuộc hạ lưu sông Thu Bồn.
Thủy tổ tộc Nguyễn văn chúng ta, ngài Nguyễn văn Tấn cùng với vợ là bà Thị Lựu sinh hạ ba trai:
- Nguyễn Văn Đối (tự Bào)
- Nguyễn Văn Hành (tự Sơn)
- Nguyễn Văn Toán
Ba vị nầy là Cao Tổ các phái nhất, nhì, ba tại làng Xuyên Tây và Xuyên Đông mà hậu duệ của quý Ngài đã kế truyền mãi cho đến ngày nay.
Trải qua hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm (1945 đến 1975) nhà thờ tộc cũng đã hai lần bị bom đạn tàn phá. Đến năm Kỷ Tỵ (1989) nhà thờ tộc lại được tái xây dựng tại xóm Mỹ Hiến, thôn Xuyên Đông và đã hoàn thành vào năm Canh Ngọ (1990).
Hàng năm cứ đến ngày lễ lệ của tộc hay mỗi độ xuân về, con cháu nội ngoại ở xa gần về thăm quê đều đến nhà thờ dâng hương lễ bái để tỏ lòng tri ân Tiên Tổ.
Câu đối treo ở giữa gian nhà thờ:
“ Cây đức vun trồng, cành lá sum sê nhờ cội cả
Non nhân gìn giữ, sông hồ dài rộng bởi nguồn sâu”
Đã diễn tả trọn vẹn được niềm suy tư của con cháu đối với tiên linh Tiên Tổ.
                                                         Xuyên Tây, ngày 17 tháng 04 năm Nhâm Ngọ
                                                                                              (28-05-2002)
                                                                                         Nguyễn Văn Thiều
                                                                                                Kính thuật






  


LĂNG MỘ THỦY TỔ TỘC NGUYỄN VĂN

Ngôi song mộ Ngài Án trạch lệnh Nguyễn Ngọc Cào và phu nhân Huỳnh Thị Anh an táng tại xứ đồng Cồn Leo, làng Mỹ Xuyên Tây, một ngôi song mộ cao lớn nhất trong vùng, chứng minh trận lũ lụt lớn năm 1964 (Giáp Thìn) nước không ngập nổi ngôi song mộ, trước lăng mộ ngài có ghi câu đối:
         
    水

        山

 Phiên âm:
“Thuỷ dẫn nguyên thâm hoa tự Bắc
  Sơn bồi cơ triệu hậu ư Nam

Đến năm 1976, theo chủ trương chung của Nhà nước, chính quyền địa phương cho qui hoạch tất cả mộ mã về tại nghĩa trang đã được qui định, do đó ngôi song mộ của Ngài Án trạch lệnh Nguyễn ngọc Cào và phu nhân Huỳnh thị Anh được con cháu hậu duệ của Ngài di dời về nghĩa trang Gò Khoai, thôn Xuyên Tây, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.
Lăng mộ của Ngài được xây dựng khang trang và kiên cố.

                                                           Nam Phước, ngày 01 tháng 03 năm 2004
                                                                          (Nhằm ngày 11 tháng 02 năm Giáp Thân)
                                                                                       Nguyễn Văn Hiến
                                                                                               Kính thuật






SƠ ĐỒ KHU LĂNG MỘ TỘC NGUYỄN VĂN

TẠI NGHĨA TRANG GÒ KHOAI-XUYÊN TÂY





           3        1        2    

 9    8       7       6      5      4                




GHI CHÚ VỊ TRÍ MỘ TIÊN TỔ: Theo ký hiệu số:
1. Ngôi song mộ Thần Tổ Án Trạch Lệnh Nguyễn Ngọc Cào và phu nhân Huỳnh Thị Anh.
2. Ngôi mộ Thuỷ Tổ Nguyễn Văn Tấn.
3. Ngôi mộ Bà Thuỷ Tổ Thị Lựu
4-5: Song mộ của Ông Bà Cao Tổ phái nhất.
6-7: Song mộ của Ông Bà Cao Tổ phái nhì.
8-9: Song mộ của Ông Bà Cao Tổ phái ba.
* Phía dưới là phần mộ của Ông bà Cao tổ các phái 1 và phái 3.
* Phía ngoài khu lăng mộ là khu vực an táng mộ của phái nhất.
* Khu vực an táng mộ của phái nhì và phái ba: hiện nay ở tại nghĩa trang thôn Mỹ An (làng Xuyên Đông), thị trấn Nam Phước (Duy An), Duy Xuyên.




DÒNG HỌ TÔN THÂN QUAN HỆ TỘC PHÁI

Như vậy, theo tài liệu đã ghi dẫn Ngài Án Trạch lệnh Nguyễn Ngọc Cào và phu nhânHuỳnh Thị Anh đã sinh hạ lục nam, nhất nữ.
  
Nhất lang:
Ngài Nguyễn Văn Tấn là Thủy Tổ tộc Nguyễn Văn hiện nay con cháu hậu duệ của Ngài ở tại làng Xuyên Tây, làng Xuyên Đông, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên.Phái ba có một chi con cháu đang làm ăn sinh sống tại làng Bến Đền, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, đã xây dựng nhà thờ của chi tọa lạc tại làng Bến Đền, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn.

Nhị lang:
Ngài Nguyễn Văn Tần sanh hạ Cao Thuỷ Tổ Đại Lang Nguyễn Viết Thống, sanh hạ Nguyễn Viết Sĩ, Nguyễn Viết Nhứt, Nguyễn Viết Khoa, sau đổi lại tộc Nguyễn Đình. Ngài Nguyễn Viết Sĩ được tôn vinh Tiền hiền làng Trà Đình. Hiện nay con cháu hậu duệ của Ngài ở làng Trà Đình, thôn 5, xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.
Theo bút tích của gia phả tộc Nguyễn Đình, Ngài Nguyễn Đình Khoa sinh hạ Ngài Nguyễn Đức Phân đến khai cơ lập nghiệp được tôn vinh Tiền hiền tại làng Hội Khách, xã Đại Sơn, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.

Tam lang: Ngài Nguyễn Văn Lăng.

Tứ lang: Ngài Nguyễn Văn Lâm
Nhị vị khai sáng tộc Nguyễn Văn cùng với các tộc Đặng, Cao, Trương, Trần, Trình, Phạm, Võ, lập xã hiệu Mỹ Xuyên Đông, sau đổi lại Tân Mỹ Đông, huyện Duy Xuyên. Quý Ngài được tôn vinh trong các vị Tiền hiền khai sáng lập xã hiệu Tân Mỹ Đông, huyện Duy Xuyên. Hiện nay con cháu hậu duệ của Ngài ở tại làng Tân Mỹ Đông, thôn Phước Mỹ, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Ngũ lang:
Ngài Nguyễn Đăng Phò là Thủy Tổ tộc Nguyễn Đăng, hiện nay con cháu hậu duệ của Ngài ở tại khối phố Bình An và thôn Đình An, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Lục lang:
  
 Ngài Nguyễn Linh Quang sinh hạ Cao Tổ Nguyễn Văn Tốt, tùng chúa Nguyễn chinh phạt Chiêm thành quản khai biên cương, Nguyễn triều sắc phong Nguyễn Phủ Quân Thượng Đẳng Thần.
Nguyễn Linh Quang con thứ sáu của Ngài Án Trạch lệnh Nguyễn  Ngọc Cào có công khai khẩn lập xã Hà Nhuận được phồn thịnh. Nguyễn triều gia phong tước lộc, Ngài Cao Tổ Nguyễn Văn Tốt được tôn vinh Tiền hiền làng Hà Nhuận, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Hiện nay con cháu hậu duệ của Ngài ở tại làng Hà Nhuận, thôn Hà Nhuận, xã Duy Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

PHẦN KẾT

Như vậy, hơn năm trăm năm, trải qua biết bao dâu bể của cuộc đời, chúng ta là con cháu hậu duệ của Ngài Án Trạch Lệnh Nguyễn Ngọc Cào và phu nhân Huỳnh Thị Anh, mới được truy nguyên thống nhất đoàn tụ trong một đại gia đình tộc Nguyễn, thắm thiết đậm đà trong tình huynh đệ, một sự kiện vô cùng quan trọng cho dòng họ, để mãi mãi muôn đời sau con cháu biết được cội nguồn tông môn Tiên Tổ.


                                                            Nam Phước, ngày 01 tháng 03 năm 2004
                                                                          (Nhằm ngày 11 tháng 02 năm Giáp Thân)
                                                                                        Nguyễn Văn Hiến
                                                                                                                                             Kính thuật






  
ĐẠI DIỆN CÁC TỘC:
(Đã thống nhất ký tên)

Ông Nguyễn Văn Tú: Trưởng tộc Nguyễn Văn, ở tại Xuyên Tây và Xuyên Đông, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Ông Nguyễn Đình ChánhTrưởng tộc Nguyễn Đình, ở tại làng Trà Đình, xã Quế Phú, huyện Quế Sơn, tỉnh Quảng Nam.

Ông Nguyễn Văn HiệpTrưởng tộc Nguyễn Văn, ở tại làng Tân Mỹ Đông, thôn Phước Mỹ, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Ông Nguyễn ĐăngTrưởng tộc Nguyễn Đăng, ở tại thôn Đình An, thị trấn Nam Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.

Ông Nguyễn Văn TưTrưởng tộc Nguyễn Văn, ở tại làng Hà Nhuận, xã Duy Phước, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam.



        
Nhâm Thìn  niên
(2012)


Bổn Tộc tu soạn
Chia sẻ bài viết ^^
Other post

All comments [ 7 ]


Trần Văn Hảo lúc 16:09 3 tháng 4, 2016

Các cụ cao niên cho rằng ngài Tiền Hiền Hùng Long Hầu Lê Quý Công của làng Mỹ Xuyên Đông nguyên là người Tộc Nguyễn. Đây là một vấn đề mang tính lịch sử cần được làm sáng tỏ. Vậy trong các hậu duệ của ông Nguyễn Ngọc Cào có ai được vua Lê ban quốc tính thành Lê Quý Công không?

Unknown lúc 07:49 13 tháng 4, 2016

Họ Nguyễn Quang
xin chào Ban liên lạc Họ Nguyễn Quảng Nam Đà Nẵng
Tôi muốn tìm nguồn gốc của tọc họ mình.Thủy của họ chúng tôi Họ Nguyễn Quang Thôn Bình An(thôn tiệm rượu củ) Xã An Bình Huyện Duy Xuyên (ngay chân cầu câu lâu cũ)
Nhưng tôi không biết ngồn gốc từ đâu đến.Đến nay dòng họ chúng tôi được bao nhiêu đời.
Tôi mong muốn ban liên lạc họ Nguyễn QN-ĐN tìm giúp nguồn gốc họ chúng tôi
Tôi xin chân thành cảm ơn

nguyennhan lúc 12:10 4 tháng 1, 2020

Cảm phục.Bài viết rất công phu,chi tiết . Nguồn trích dẫn rất chuẩn .Qua đây chúng tôi học hỏi được nhiều điều trong việc biên soạn gia phả .Xin cảm ơn...

Nặc danh lúc 01:17 4 tháng 11, 2023

Cháu là Nguyễn Văn Việt muốn tìm hiểu nguồn gốc tộc Nguyễn Văn ở xã bình phú, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Các bác có tư liệu gửi chon con xin để tìm hiểu với ah. Con xin cảm ơn

Nặc danh lúc 18:19 29 tháng 2, 2024

Tộc Trần bên tôi ở làng Mỹ Xuyên Đông có cụ Trần Quý Công, nguyên quán ở làng Mỹ Xuyên, xã Vĩnh Yên, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa.Do nạn bè phái ở triều đình nhà hậu Lê, cụ bị truy sát nên di cư vào cùng với các họ khác ( trong đó có bà tiền hiền làng Mỹ Khê cựu) kiết lập Mỹ Xuyên xã đông tây nhị giáp đến nay đã hơn 500 năm .

Nặc danh lúc 21:18 18 tháng 12, 2024

Xin chào Ban liên lạc Họ Nguyễn Quảng Nam Đà Nẵng
Tôi muốn tìm nguồn gốc của tộc họ mình.Thủy tổ của họ chúng tôi Ông Nguyễn Văn Nguyện, di cư vào nam, thế hệ trước có liên lạc được, nhưng nay đến đời tôi không còn thông tin gì nữa…!
Tôi mong muốn ban liên lạc họ Nguyễn QN-ĐN tìm giúp nhà thờ họ chúng tôi hiện ở đâu? Có thể là Huyện Duy Xuyên!
Tôi xin chân thành cảm ơn

Nặc danh lúc 21:19 18 tháng 12, 2024

Xin liên lạc theo email: phamduytoan0501@gmail.com
Chân thành cảm ơn!

Your comments