Lò Vôi Cẩm Hà

Thứ Ba, 24 tháng 12, 2013

Quảng Nam quê ta, thời tiết chuyển biến theo từng mùa rất dễ phân biệt. Hai mùa mưa nắng gây ảnh hưởng đến đời sống con người không phải ít. Mùa đông thì mưa tầm tả đến mấy tháng liền, mưa chi đến nổi người nông dân phải gọi mưa thúi đất, không làm ăn được chi cả. Rồi mùa hạ đến nắng chang chang, oi bức rất khó chịu, thậm chí đặt lưng nằm lên phảng gỗ ngủ trưa cũng không yên, nóng ngảy nhót. Người ta nói: “Nắng tháng tám, nám trái bưởi” đó mà. Đồng lõa với cái khắc nghiệt đó, ngọn gió hướng tây được gọi là gió nôm, thổi từ Lào qua mang theo hơi nóng hăng hắt, thiêu đốt đồng lúa, cỏ cây cháy rụi, khô queo. Không như ngọn gió nờm (nồm) thổi từ biển Cửa Đại lên rất mát mẻ, dễ chịu vô cùng. Thế mà đối với những kẻ yêu nhau, dù cho thời tiết có thế nào đi nữa cũng không quan tâm, coi như không có việc gì xãy ra, mượn cớ ngọn gió nói gần, nói xa để ướm thử lòng nhau: 
" Gió nôm thổi xuống lò vôi,
Ai đồn Ta (với) Bạn xứng đôi vợ chồng.”

Quan sát hình thù một lò vôi, thật quá đơn sơ giản dị. Trơ trọi một chòi tranh thấp lè tè, che mưa nắng một ụ đất nằm chình ình ngay chính giữa, gọi là lò hầm vôi và được xây bằng gạch chưa nung với đất sét thật dẽo, tạo thành một khối đặc có đường kính 3 mét và chiều cao 5 phân. Mặt bằng bên trên lõm xuống, trũng lòng chão, nơi đây chứa vun lum lúp một đống vật liệu gồm có vỏ hến và than củi trộn vào vừa đủ số lượng làm vật xúc tác cho sự cháy bùng. Bên cạnh lò trang bị một quạt gió, đạp bằng chân thổi từng luồng dưỡng khí qua ống dẫn hơi vào trung tâm của lò, nhờ đó sự đốt cháy nung nóng được liên tục. Đến khi nào ngọn lửa không còn thấy cháy bốc lên, người ta mới ngưng hầm đốt. Bây giờ chất sừng bên ngoài vỏ hến hoàn toàn tiêu hủy, để lộ ra mô xốp trắng ngần, đụng vào dễ bể nát, đó là vôi được hầm xong. Chờ cho lò nguội lạnh, người ta mới tách riêng phần vôi trắng tinh, mướt mịn ra,  đem sú nước dùng để ăn trầu. Phần còn lại xấu hơn dùng vào việc quét tường, xây bờ xông nhà cửa, hàng rào... Công việc xem qua chỉ giản dị như thế. Nhưng vật liệu tích trử, vun thành từng đống cao có ngọn ngoài trời, trông thấy không khỏi kinh ngạc. Đó là một công trình chuẩn bị lâu dài, gom góp cho đủ số lượng dễ gì một sớm, một chiều có ngay được. Thời xưa chưa có xi măng, chỉ có dùng vôi để xây nhà cửa, tường rào, thành quách mà cũng vững vàng, bền chắt. Trước khi đem ra dùng, cần có một thời gian ủ rộng khá lâu để cho vôi khô nở đều, sau đó kêu trai tráng đến nhà giã vôi ngày đêm liên miên mới dùng được. Cảnh trai tráng hát hò khoan vui nhộn hòa nhịp với tiếng chày nện xuống, nhấc lên làm vui lây hàng xóm lân cận quá chừng. Hồ xây muốn được chắt chắn hơn, người ta còn gia thêm nước mật hoặc nước nhựa cây bời lời, trước khi trộn cát vào để có vửa hồ hoàn hảo. Nhắc đến cây bời lời, không thế nào quên một thời niên thiếu với thú chơi bắn súng trãy, đạn hạt bời lời, mà ở quê mình mới có thú vui tự tạo do vật dụng có sẵn trong thiên nhiên mà làm nên. 

Nghĩ lại ông bà ta ngày xưa đã có nhiều óc sáng tạo, từ ích lợi nầy nãy sinh hữu dụng khác. Ý định khởi đầu cào hến ăn ruột, rồi từ đó tận dụng vỏ hầm ra vôi, một nhu cầu thiết thực đem lại nơi ăn, chốn ở cho con người thoải mái nhiều hơn. Đặc hải sản hến được phần đông mọi người ưa thích, từ miền đồng quê cho đến thành thị. Tuy rằng không phải món cao lương mỹ vị, nhưng có mùi vị đậm đà hương đồng cỏ nội. Nhắc đến là thấy nhớ quê hương, nhớ rõ ràng từng khúc sông, bên lở bên bồi. Mà bên bồi mới là nơi loài hến sinh sản nhiều nhất. Không biết con hến sinh sản qua ngã nào? Trứng hay là con, chưa từng thấy hến con trong bụng mẹ như loài ốc, mà cũng chả thấy trứng rời, trứng chùm bao giờ. Thế mà vô số kể, cào xúc mãi vẫn có để mà bắt. Ở nhà quê, vào mùa nước cạn chỉ cần mang theo cái rổ são và chiếc mũng rái là đủ đồ nghề rồi. Cứ việc lặn xuống nước, cào xúc phần lớp mặt có cả hến trong cát cho thật đầy rổ rồi nâng lên khỏi mặt nước đồng thời lắc são, gạn lọc lấy một mớ hến vàng hùm, thấy bắt ham. Từ con lớn hết cở to bằng hạt đậu ngự, cho đến con nhỏ xíu như hạt đậu đen cũng không tha. Đem hến về nhà, chà xát cọ rửa thật sạch sẽ, chờ cho nồi nước sôi bùng lên, bỏ vào tí muối, đổ mớ hến vào và đậy nắp vung lại. Khi nào thấy nước sôi trở lại, dùng đôi đủa bếp đánh đều cho hến hả miệng, tróc vỏ. Đổ hến ra rổ, hứng lấy nước cốt màu đục ngầu, sanh sánh, vị ngọt tự nhiên rất ngon miệng. Đải lấy phần ruột và ướp hành tiêu nước mắm, chuẩn bị cho từng món ăn tùy theo sở thích của từng người. Món ruột hến xào, xúc bánh tráng nướng lai rai trong khi chờ đợi ăn bửa cháo hến nóng, nấu bằng gạo lúa mới đầu mùa thật ngon tuyệt. Thông dụng và thực tế hơn, không có nồi canh nào ngon, ý vị hơn nồi canh hến nấu với lá rau bùi ngọt, rau muống xắt nhỏ và chang vào chút nước mắm có dằm trái ớt tươi chìa vôi. Món canh tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ đạm chất, ăn vào mát dạ, dễ tiêu vô hại.

Cũng nhờ làng Kim Bồng có nghề cào hến với dụng cụ qui mô hơn, mà người Phố Hội mới được ăn hến quanh năm và làng Cẩm Hà mua được nhiều vỏ hến để làm nghề hầm vôi. Người ta tích trử thật tài tình, ngay cả trong những ngày mưa sa, bão táp lụt lội vẫn thấy gánh hến rao bán khắp mọi ngã đường. Buổi sáng ăn khoai lang Tiên Đỏa với hến nước thành thói quen, đã ngon miệng mà còn rẻ tiền và trong bửa cơm thường ngày, không có bát canh hến đặt cạnh tô mắm xổi dưa cà, thấy còn thiếu cái gì đó hương vị Hội An.

Như chúng ta đã biết, khi hầm vôi người ta dùng đến than củi gọi là than hoa. Nguồn than ở đây do người miền rừng núi cung cấp. Ai có vào rừng sâu mới tường tận, thấy đích thực cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của người tiều phu đi đốt than. Hành trang mang theo không ngoài đôi giỏ gánh than cũ kỷ, cái rựa mòn khuyết theo với thời gian năm tháng và mo cơm nguội để dành ăn lót dạ. Chiều tối mờ mịt trở về với gánh than nặng tiểu trên vai không cân xứng với tấm thân ốm yếu gầy còm, áo quần tả tơi rách rưới, mặt mũi lọ lem nhơ nhớp.
 
Sau cuộc đổi đời năm 75, hình ảnh bề ngoài người tù cải tạo, bắt buộc đi lao động đốt than đem về chạy máy nước, thổi bệ lò rèn cũng giống y chan người tiều phu đốt than không hơn, không kém. Suy ngẫm lại khúc hát Mẹ ru năm xưa, không khỏi ngậm ngùi, xót thương cho thân phận kẻ thất thế, sa cơ: 

“Chim Quyên xuống đất ăn trùn, 
Anh Hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.”
 

(Ghi thêm: Chim quyên là loại chim chỉ ăn trái chín cây, không bao giờ ăn loại côn trùng như: dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ… và nhất là đời nào lại ăn con trùn sống nơi bùn lầy dơ bẩn. Bởi vậy, chúng ta lại còn có câu hát ru con nữa, ấm áp tình nghĩa vợ chồng, ăn đời ở kiếp với nhau: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu, vợ chồng quen hơi.”) 
Chia sẻ bài viết ^^
Other post

All comments [ 0 ]


Your comments