Quảng
Nam quê ta, thời tiết chuyển biến theo từng mùa rất dễ phân biệt. Hai
mùa mưa nắng gây ảnh hưởng đến đời sống con người không phải ít. Mùa
đông thì mưa tầm tả đến mấy tháng liền, mưa chi đến nổi người nông dân
phải gọi mưa thúi đất, không làm ăn được chi cả. Rồi mùa hạ đến nắng
chang chang, oi bức rất khó chịu, thậm chí đặt lưng nằm lên phảng gỗ ngủ
trưa cũng không yên, nóng ngảy nhót. Người ta nói: “Nắng tháng tám, nám
trái bưởi” đó mà. Đồng lõa với cái khắc nghiệt đó, ngọn gió hướng tây
được gọi là gió nôm, thổi từ Lào qua mang theo hơi nóng hăng hắt, thiêu
đốt đồng lúa, cỏ cây cháy rụi, khô queo. Không như ngọn gió nờm (nồm)
thổi từ biển Cửa Đại lên rất mát mẻ, dễ chịu vô cùng. Thế mà đối với
những kẻ yêu nhau, dù cho thời tiết có thế nào đi nữa cũng không quan
tâm, coi như không có việc gì xãy ra, mượn cớ ngọn gió nói gần, nói xa
để ướm thử lòng nhau:
" Gió nôm thổi xuống lò vôi,
Ai đồn Ta (với) Bạn xứng đôi vợ chồng.”
Quan
sát hình thù một lò vôi, thật quá đơn sơ giản dị. Trơ trọi một chòi
tranh thấp lè tè, che mưa nắng một ụ đất nằm chình ình ngay chính giữa,
gọi là lò hầm vôi và được xây bằng gạch chưa nung với đất sét thật dẽo,
tạo thành một khối đặc có đường kính 3 mét và chiều cao 5 phân. Mặt bằng
bên trên lõm xuống, trũng lòng chão, nơi đây chứa vun lum lúp một đống
vật liệu gồm có vỏ hến và than củi trộn vào vừa đủ số lượng làm vật xúc
tác cho sự cháy bùng. Bên cạnh lò trang bị một quạt gió, đạp bằng chân
thổi từng luồng dưỡng khí qua ống dẫn hơi vào trung tâm của lò, nhờ đó
sự đốt cháy nung nóng được liên tục. Đến khi nào ngọn lửa không còn thấy
cháy bốc lên, người ta mới ngưng hầm đốt. Bây giờ chất sừng bên ngoài
vỏ hến hoàn toàn tiêu hủy, để lộ ra mô xốp trắng ngần, đụng vào dễ bể
nát, đó là vôi được hầm xong. Chờ cho lò nguội lạnh, người ta mới tách
riêng phần vôi trắng tinh, mướt mịn ra, đem sú nước dùng để ăn trầu.
Phần còn lại xấu hơn dùng vào việc quét tường, xây bờ xông nhà cửa, hàng
rào... Công việc xem qua chỉ giản dị như thế. Nhưng vật liệu tích trử,
vun thành từng đống cao có ngọn ngoài trời, trông thấy không khỏi kinh
ngạc. Đó là một công trình chuẩn bị lâu dài, gom góp cho đủ số lượng dễ
gì một sớm, một chiều có ngay được. Thời xưa chưa có xi măng, chỉ có
dùng vôi để xây nhà cửa, tường rào, thành quách mà cũng vững vàng, bền
chắt. Trước khi đem ra dùng, cần có một thời gian ủ rộng khá lâu để cho
vôi khô nở đều, sau đó kêu trai tráng đến nhà giã vôi ngày đêm liên miên
mới dùng được. Cảnh trai tráng hát hò khoan vui nhộn hòa nhịp với tiếng
chày nện xuống, nhấc lên làm vui lây hàng xóm lân cận quá chừng. Hồ xây
muốn được chắt chắn hơn, người ta còn gia thêm nước mật hoặc nước nhựa
cây bời lời, trước khi trộn cát vào để có vửa hồ hoàn hảo. Nhắc đến cây
bời lời, không thế nào quên một thời niên thiếu với thú chơi bắn súng
trãy, đạn hạt bời lời, mà ở quê mình mới có thú vui tự tạo do vật dụng
có sẵn trong thiên nhiên mà làm nên.
Nghĩ lại
ông bà ta ngày xưa đã có nhiều óc sáng tạo, từ ích lợi nầy nãy sinh hữu
dụng khác. Ý định khởi đầu cào hến ăn ruột, rồi từ đó tận dụng vỏ hầm ra
vôi, một nhu cầu thiết thực đem lại nơi ăn, chốn ở cho con người thoải
mái nhiều hơn. Đặc hải sản hến được phần đông mọi người ưa thích, từ
miền đồng quê cho đến thành thị. Tuy rằng không phải món cao lương mỹ
vị, nhưng có mùi vị đậm đà hương đồng cỏ nội. Nhắc đến là thấy nhớ quê
hương, nhớ rõ ràng từng khúc sông, bên lở bên bồi. Mà bên bồi mới là nơi
loài hến sinh sản nhiều nhất. Không biết con hến sinh sản qua ngã nào?
Trứng hay là con, chưa từng thấy hến con trong bụng mẹ như loài ốc, mà
cũng chả thấy trứng rời, trứng chùm bao giờ. Thế mà vô số kể, cào xúc
mãi vẫn có để mà bắt. Ở nhà quê, vào mùa nước cạn chỉ cần mang theo cái
rổ são và chiếc mũng rái là đủ đồ nghề rồi. Cứ việc lặn xuống nước, cào
xúc phần lớp mặt có cả hến trong cát cho thật đầy rổ rồi nâng lên khỏi
mặt nước đồng thời lắc são, gạn lọc lấy một mớ hến vàng hùm, thấy bắt
ham. Từ con lớn hết cở to bằng hạt đậu ngự, cho đến con nhỏ xíu như hạt
đậu đen cũng không tha. Đem hến về nhà, chà xát cọ rửa thật sạch sẽ, chờ
cho nồi nước sôi bùng lên, bỏ vào tí muối, đổ mớ hến vào và đậy nắp
vung lại. Khi nào thấy nước sôi trở lại, dùng đôi đủa bếp đánh đều cho
hến hả miệng, tróc vỏ. Đổ hến ra rổ, hứng lấy nước cốt màu đục ngầu,
sanh sánh, vị ngọt tự nhiên rất ngon miệng. Đải lấy phần ruột và ướp
hành tiêu nước mắm, chuẩn bị cho từng món ăn tùy theo sở thích của từng
người. Món ruột hến xào, xúc bánh tráng nướng lai rai trong khi chờ đợi
ăn bửa cháo hến nóng, nấu bằng gạo lúa mới đầu mùa thật ngon tuyệt.
Thông dụng và thực tế hơn, không có nồi canh nào ngon, ý vị hơn nồi canh
hến nấu với lá rau bùi ngọt, rau muống xắt nhỏ và chang vào chút nước
mắm có dằm trái ớt tươi chìa vôi. Món canh tuy đơn sơ, nhưng đầy đủ đạm
chất, ăn vào mát dạ, dễ tiêu vô hại.
Cũng nhờ
làng Kim Bồng có nghề cào hến với dụng cụ qui mô hơn, mà người Phố Hội
mới được ăn hến quanh năm và làng Cẩm Hà mua được nhiều vỏ hến để làm
nghề hầm vôi. Người ta tích trử thật tài tình, ngay cả trong những ngày
mưa sa, bão táp lụt lội vẫn thấy gánh hến rao bán khắp mọi ngã đường.
Buổi sáng ăn khoai lang Tiên Đỏa với hến nước thành thói quen, đã ngon
miệng mà còn rẻ tiền và trong bửa cơm thường ngày, không có bát canh hến
đặt cạnh tô mắm xổi dưa cà, thấy còn thiếu cái gì đó hương vị Hội An.
Như chúng
ta đã biết, khi hầm vôi người ta dùng đến than củi gọi là than hoa.
Nguồn than ở đây do người miền rừng núi cung cấp. Ai có vào rừng sâu mới
tường tận, thấy đích thực cuộc đời vất vả, nhọc nhằn, khổ cực của người
tiều phu đi đốt than. Hành trang mang theo không ngoài đôi giỏ gánh
than cũ kỷ, cái rựa mòn khuyết theo với thời gian năm tháng và mo cơm
nguội để dành ăn lót dạ. Chiều tối mờ mịt trở về với gánh than nặng tiểu
trên vai không cân xứng với tấm thân ốm yếu gầy còm, áo quần tả tơi
rách rưới, mặt mũi lọ lem nhơ nhớp.
Sau cuộc
đổi đời năm 75, hình ảnh bề ngoài người tù cải tạo, bắt buộc đi lao động
đốt than đem về chạy máy nước, thổi bệ lò rèn cũng giống y chan người
tiều phu đốt than không hơn, không kém. Suy ngẫm lại khúc hát Mẹ ru năm
xưa, không khỏi ngậm ngùi, xót thương cho thân phận kẻ thất thế, sa cơ:
“Chim Quyên xuống đất ăn trùn,
Anh Hùng lỡ vận lên nguồn đốt than.”
(Ghi thêm: Chim quyên là loại chim chỉ ăn trái chín cây, không bao giờ
ăn loại côn trùng như: dế, cào cào, châu chấu, sâu bọ… và nhất là đời
nào lại ăn con trùn sống nơi bùn lầy dơ bẩn. Bởi vậy, chúng ta lại còn
có câu hát ru con nữa, ấm áp tình nghĩa vợ chồng, ăn đời ở kiếp với
nhau: “Chim quyên ăn trái nhãn lồng; Lia thia quen chậu, vợ chồng quen
hơi.”)
All comments [ 0 ]
Your comments